PHÁP ÂM (Song Ngữ Anh-Việt): KINH VIÊN GIÁC – CHƯƠNG 01 – VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT


ESOTERIC DHARMA VAJRAPANI LINEAGE
VAJRAPANI GROUP – SUN GENERATION

DHARMA SOUNDS (Bilingualism: English-Vietnamese):
COMPLETE ENLIGHTENMENT SÙTRA _ CHAPTER 01 : MANJUSRI BODHI SATTVA

PHÁP ÂM (Song Ngữ Anh-Việt):
KINH VIÊN GIÁC – CHƯƠNG 01 – VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

TRANSLATOR : NHAT LOAN
SPEAKER : NHAT NGAN (english) – NHAT AN (vietnamese)

PHÁP ÂM : KINH VIÊN GIÁC – CHƯƠNG 02 _ PHỔ HIỀN BỒ TÁT


DÒNG MẬT PHÁP VAJRAPANI
NHÓM KIM CANG TỬ ĐỜI CHỮ NHẬT 

PHÁP ÂM : KINH VIÊN GIÁC – CHƯƠNG 02 _ PHỔ HIỀN BỒ TÁT

KINH VIÊN GIÁC : CHƯƠNG 08 – BIỆN ÂM BỒ TÁT


KINH VIÊN GIÁC

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Thế-Tôn Nhập vào Chánh-Định tên là Kho-Tàng Ánh-Sáng Vĩ-Đại của Thần-Thông. Kho tàng ấy là chỗ ở giữ một cách sáng chói tôn nghiêm của các Đức Thế-Tôn, là tính Tuệ-Giác vốn rất trong suốt sạch sẽ của các loại chúng sinh. Đức Thế-Tôn Nhập vào Chánh-Định ấy nên Thân Thể và Tâm Trí đều vắng lặng, đồng nhất với bản thể phổ biến vũ trụ, nghĩa là thích ứng với Sự Bất-Nhị. Chính Sự Bất-Nhị này biểu hiện thế giới Trong Sạch. Đức Thế-Tôn ở nơi thế giới Trong Sạch này, và cùng ở với Ngài có Mười Ngàn vị Đại Sĩ mà các bậc đứng đầu là Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Di Lặc, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ, Bồ-tát Uy Đức Tự Tại, Bồ-tát Biện Âm, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng, Bồ-tát Phổ Giác, Bồ-tát Viên Giác, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ; các vị này, và các vị tùy thuộc, cùng Nhập vào Chánh-Định, nên cùng dự Pháp Hội Bình Đẳng của Đức Thế-Tôn.

CHƯƠNG 08 :  BIỆN ÂM

Lúc ấy Bồ-tát Biện Âm ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân Đức Thế Tôn, theo chiều bên phải của Ngài đi quanh Ngài ba vòng, rồi quỳ thẳng, chắp tay mà tác bạch:

Thưa Đức Thế Tôn lòng thương cao cả, phương tiện mà Ngài khai thị trên đây thật là hiếm có. Thưa Đức Thế Tôn, đối với phương tiện ấy, nghĩa là đối với cửa ngõ của Viên Giác, các vị Bồ-tát có mấy cách tu tập để nhập vào ? Con thỉnh cầu Đức Thế Tôn khai thị cho đại chúng này, và cho cả những người thời kỳ cuối cùng, làm cho ai cũng tỏ ngộ đích thực.

Tác bạch rồi, Bồ-tát Biện Âm gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy Đức Thế Tôn. Bồ-tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Biện Âm :

Tốt lắm, Thiện Nam Tử, Ông có thể vì đại chúng này, và vì cả những người sau này, mà hỏi Như Lai cách thức tu tập ba phương tiện. Ông hãy nghe kỹ, Như Lai sẽ nói cho.

Bồ-tát Biện Âm vâng lời, hoan hỷ, cùng cả Đại Chúng yên lặng lắng nghe.

Đức Thế Tôn dạy:

Thiện Nam Tử, Viên Giác trong sáng mà Chư vị Như Lai chứng ngộ vốn không có sự tu tập và người tu tập. Các vị Bồ-tát, và người sau này, dựa vào năng lực huyễn ảo của Tuệ Giác tỏ ngộ nhưng chưa hoàn toàn tỏ ngộ mà tu tập, thì khi ấy có ra hâm lăm bánh xe thiền quán trong sáng.

Một là nếu Bồ-tát chỉ nắm Cực Tĩnh, do sức mạnh Cực Tĩnh mà diệt hẳn phiền não một cách cứu cánh hoàn thiện, không rời khỏi chỗ của mình mà nhập Niết Bàn liền, đó là Bồ-tát tu riêng mặt Cực Tĩnh.

Hai là nếu Bồ-tát chỉ quán Như Huyễn, do sức mạnh Phật Đà mà biểu hiện mọi thứ thân cảnh tùy theo nhu cầu của các thế giới chúng sinh, làm đủ mọi thứ việc làm trong sáng tinh tế của Bồ-tát mà không mất cái nhớ Cực Thuần và cái biết Cực Tĩnh đối với các pháp Tổng Trì, đó là Bồ-tát tu riêng mặt Cực Động.

Ba là nếu Bồ-tát chỉ diệt trừ mọi sự huyễn ảo, nghĩa là không nắm lấy sự biểu hiện mà chỉ triệt đoạn phiền não, phiền não triệt đoạn là chứng ngộ thực tướng, đó là Bồ-tát tu riêng mặt Cực Thuần.

Bốn là nếu Bồ-tát trước nắm Cực Tĩnh, sau đem Tuệ Giác Cực Tĩnh chiếu soi huyễn ảo, thì trong sự chiếu soi này nổi lên việc làm Bồ-tát, đó là Bồ-tát trước tu Cực Tĩnh, sau tu Cực Động.

Năm là nếu Bồ-tát đem Tuệ Giác Cực Tĩnh chứng ngộ Bản Thể Cực Tĩnh, thì phiền não dứt liền, sinh tử thoát hẳn, đó là Bồ tát trước tu Cực Tĩnh, sau tu Cực Thuần.

Sáu là nếu Bồ-tát đem Tuệ Giác Cực Tĩnh, lại dùng sức mạnh huyễn ảo biểu hiện đủ cách mà hóa độ chúng sinh, rồi hủy diệt phiền não mà nhập vào Niết Bàn, đó là Bồ-tát trước tu Cực Tĩnh, giữa tu Cực Động, sau tu Cực Thuần.

Bảy là nếu Bồ-tát dùng sức mạnh Cực Tĩnh mà hủy diệt phiền não, rồi nổi lên việc làm tinh tế và trong sáng của Bồ-tát mà hóa độ chúng sinh, đó là Bồ-tát trước tu Cực Tĩnh, giữa tu Cực Thuần, sau tu Cực Động.

Tám là nếu Bồ-tát dùng sức mạnh Cực Tĩnh, rồi hóa độ chúng sinh và xây dựng Quốc Độ mà hủy diệt phiền não, đó là Bồ-tát trước tu Cực Tĩnh, sau cùng lúc tu Cực Động và Cực Thuần.

Chín là nếu Bồ-tát đem sức mạnh Cực Tĩnh giúp cho sự nổi lên mọi cách biểu hiện, sau đó hủy diệt phiền não, đó là Bồ-tát cùng lúc tu Cực Tĩnh và Cực Động, sau tu Cực Thuần.

Mười là nếu Bồ-tát đem sức mạnh Cực Tĩnh giúp cho sự dứt bặt, sau đó nổi lên mọi cách biểu hiện, đó là Bồ-tát cùng lúc tu Cực Tĩnh và Cực Thuần, sau tu Cực Động.

Mười một là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo thích ứng đủ cả, sau đó nắm lấy sự Cực Tĩnh, đó là Bồ-tát trước tu Cực Động, sau tu Cực Tĩnh.

Mười hai là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo biểu hiện đủ cả, sau đó nắm lấy sự dứt bặt, đó là Bồ-tát trước tu Cực Động, sau tu Cực Thuần.

Mười ba là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo làm mọi việc Phật làm, rồi đứng trong sự tĩnh lặng mà hủy diệt phiền não, đó là Bồ-tát trước tu Cực Động, giữa tu Cực Tĩnh, sau tu Cực Thuần.

Mười bốn là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo mà hoạt động vô ngại, rồi hủy diệt phiền não và sống trong sự Cực Tĩnh, đó là Bồ-tát trước tu Cực Động, giữa tu Cực Thuần, sau tu Cực Tĩnh.

Mười lăm là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo mà hoạt động bằng mọi phương tiện, rồi thích ứng với sự Cực Tĩnh và sự dứt bặt, đó là Bồ-tát trước tu Cực Động, sau cùng lúc tu Cực Tĩnh và Cực Thuần.

Mười sáu là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo nổi lên đủ mọi tác dụng giúp cho sự Cực Tĩnh, sau đó hủy diệt phiền não, đó là Bồ-tát cùng lúc tu Cực Động và Cực Tĩnh, sau tu Cực Thuần.

Mười bảy là nếu Bồ-tát đem sức mạnh biến ảo giúp cho sự dứt bặt, sau đó sống trong sự tĩnh tâm trong sáng và bất động, đó là Bồ-tát cùng lúc tu Cực Động và Cực Thuần, sau tu Cực Tĩnh.

Mười tám là nếu Bồ-tát đem sức mạnh dứt bặt mà phát Cực Tĩnh và sống trong sáng, đó là Bồ-tát trước tu Cực Thuần, sau tu Cực Tĩnh.

Mười chín là nếu Bồ-tát đem sức mạnh dứt bặt mà nổi lên hoạt động, sự hoạt động đối với cảnh ngộ nào cũng vẫn thích ứng Cực Thuần, đó là Bồ-tát trước tu Cực Thuần, sau tu Cực Động.

Hai mươi là nếu Bồ-tát đem sức mạnh dứt bặt mà đặt mọi tính cách biểu hiện vào trong sự tĩnh tâm, rồi nổi lên mọi sự biểu hiện, đó là Bồ-tát trước tu Cực Thuần, giữa tu Cực Tĩnh, sau tu Cực Động.

Hâm mốt là nếu Bồ-tát đem sức mạnh dứt bặt, từ bản thể bất động mà nổi lên hoạt động, hoạt động có đặc tính trong sáng ấy lại quay về sự tĩnh tâm cả, đó là Bồ-tát trước tu Cực Thuần, giữa tu Cực Động, sau tu Cực Tĩnh.

Hâm hai là nếu Bồ-tát đem sức mạnh dứt bặt làm cho mọi sự đều trong sạch, rồi đứng trong sự tĩnh tâm mà nổi lên mọi sự biểu hiện, đó là Bồ-tát trước tu Cực Thuần, sau cùng lúc tu Cực Tĩnh và Cực Động.

Hâm ba là nếu Bồ tát đem sức mạnh dứt bặt giúp cho sự Cực Tĩnh mà nổi lên mọi sự biểu hiện, đó là Bồ-tát cùng lúc tu Cực Thuần và Cực Tĩnh, sau tu Cực Động.

Hâm bốn là nếu Bồ-tát đem sức mạnh dứt bặt giúp cho sự biểu hiện, ròi từ đó phát sinh đối cảnh và Tuệ Giác trong sáng của sự Cực Tĩnh, đó là Bồ-tát cùng lúc tu Cực Thuần và Cực Động, sau tu Cực Tĩnh.

Hâm lăm là nếu Bồ-tát đem Trí Tuệ Viên Giác mà hóa hợp tất cả, tất cả đặc tính và sự dụng không rời Viên Giác, đó là Bồ-tát tu cả ba phương tiện thích ứng trong sáng với Viên Giác.

Thiện Nam Tử, hâm lăm bánh xe của thiền quán mà tất cả Bồ-tát tu tập là như vậy. Nếu các vị Bồ-tát, và những người sau này, muốn y cứ vào hâm lăm bánh xe ấy, thì trước phải giữ phạn hạnh, lắng tĩnh tư duy, khẩn thiết sám hối. Ba tuần bảy ngày làm như vậy rồi, đem hâm lăm bánh xe này mỗi thứ ghi riêng, gấp lại, chí thành khẩn cầu tha thiết, dùng tay mà lấy, mở ra thì biết bánh xe lấy được là tính cách tu tập liền liền hay tính cách tu tập dần dần. Làm như vậy mà len vào một thoáng ngờ vực là bất thành.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây .

Biện Âm nên biết,

Tuệ Giác trong sáng

của các Bồ-tát

sinh từ thiền quán —

Thiền quán ba mặt

Cực Tĩnh Cực Động

cùng với Cực Thuần,

tu tập liền liền

hay là dần dần

thành hâm lăm cách.

Chư vị Như Lai

trong mười phương hướng,

những người tu hành

thuộc ba thì gian,

không ai không nhờ

phương tiện như vậy

mà được thành tựu

Tuệ Giác Bồ Đề.

Chỉ trừ những người

tỉnh ngộ liền liền,

cùng với những kẻ

không chịu Phật pháp,

còn các Bồ-tát

và người sau này

thường xuyên nắm giữ

phương tiện như vậy,

thích ứng, nỗ lực,

và tu tập theo,

thì nhờ sức mạnh

Từ Bi của Phật,

sẽ không bao lâu

chứng được Niết Bàn ./.

™–œ¯—˜

KINH VIÊN GIÁC : CHƯƠNG 07 – UY ĐỨC TỰ TẠI


KINH VIÊN GIÁC

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Thế-Tôn Nhập vào Chánh-Định tên là Kho-Tàng Ánh-Sáng Vĩ-Đại của Thần-Thông. Kho tàng ấy là chỗ ở giữ một cách sáng chói tôn nghiêm của các Đức Thế-Tôn, là tính Tuệ-Giác vốn rất trong suốt sạch sẽ của các loại chúng sinh. Đức Thế-Tôn Nhập vào Chánh-Định ấy nên Thân Thể và Tâm Trí đều vắng lặng, đồng nhất với bản thể phổ biến vũ trụ, nghĩa là thích ứng với Sự Bất-Nhị. Chính Sự Bất-Nhị này biểu hiện thế giới Trong Sạch. Đức Thế-Tôn ở nơi thế giới Trong Sạch này, và cùng ở với Ngài có Mười Ngàn vị Đại Sĩ mà các bậc đứng đầu là Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Di Lặc, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ, Bồ-tát Uy Đức Tự Tại, Bồ-tát Biện Âm, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng, Bồ-tát Phổ Giác, Bồ-tát Viên Giác, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ; các vị này, và các vị tùy thuộc, cùng Nhập vào Chánh-Định, nên cùng dự Pháp Hội Bình Đẳng của Đức Thế-Tôn.

CHƯƠNG 07:  UY ĐỨC TỰ TẠI

Lúc ấy Bồ-tát Uy Đức Tự Tại ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân Đức Thế Tôn, theo chiều bên phải của Ngài đi quanh Ngài ba vòng, rồi quỳ thẳng, chắp tay mà tác bạch:

Thưa Đức Thế-Tôn lòng thương cao cả, Ngài đã vì chúng con mà phân tách những sự thích ứng viên giác như vậy, làm cho các vị Bồ-tát Tuệ Giác sáng tỏ, nhờ tiếng nói tròn đầy của Đức Thế Tôn mà không qua sự tu tập vẫn được ích lợi tốt đẹp.

Thưa Đức Thế Tôn, ví như thành trì to lớn, phía ngoài có bốn cửa, ai cũng có thể tùy phương hướng mình muốn mà đi vào thành trì ấy, chứ không phải chỉ có một đường. Các vị Bồ-tát cũng vậy, trang hoàng Quốc Độ và hoàn thiện Tuệ Giác, hai sự đó không phải chỉ bằng phương tiện duy nhất. Do đó, con thỉnh cầu Đức Thế Tôn dạy cho chúng con biết, có bao nhiêu phương tiện và người thực hành phương tiện ấy ? Dạy về điều này, Đức Thế Tôn sẽ làm cho các vị Bồ-tát trong Đại Hội này, và những người thời kỳ cuối cùng cầu pháp Đại Thừa, mau chóng tỏ ngộ, du ngoạn trong biển cả vắng lặng vĩ đại của Đức Thế Tôn.

Tác bạch rồi, Bồ-tát Uy Đức Tự Tại gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy Đức Thế Tôn. Bồ-tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Uy Đức Tự Tại :

Tốt lắm, Thiện Nam Tử, Ông có thể vì các vị Bồ-tát, và những người sau này, mà hỏi Như Lai về các phương tiện như vậy. Ông hãy nghe kỹ, Như Lai sẽ nói cho.

Bồ-tát Uy Đức Tự Tại vâng lời, hoan hỷ, cùng cả Đại Chúng yên lặng lắng nghe.

Đức Thế Tôn dạy:

Thiện Nam Tử, Viên Giác vô thượng, khắp cả mười phương, xuất sinh Như Lai và các Pháp, nên Bản Thể vốn đồng đẳng. Bản Thể ấy, đối với những người tu hành, thật là nhất trí; nhưng phương tiện thích ứng Bản Thể ấy thì có vô số, và qui nạp lại, phân loại theo khuynh hướng của người tu hành thì có ba.

Thiện Nam Tử, các vị Bồ-tát tỏ ngộ Viên Giác trong sáng, đem cái Tuệ Giác tỏ ngộ ấy nắm lấy sự cực tĩnh làm chủ yếu mà làm cho các Vọng Niệm lắng xuống, nên thấy rõ Tâm Thức là phiền động, Tuệ Giác cực tĩnh phát sinh. Bụi bặm Thân Tâm từ đây diệt hẳn, bên trong liền phát ra sự thư thái tĩnh lặng. Do tĩnh lặng như vậy mà Tâm Thể Như Lai mười phương Quốc Độ biểu hiện trong đó như hình ảnh hiện trong đài gương. Phương tiện như vậy gọi là mặt Cực Tĩnh Xa-Ma-Tha.

Thiện Nam Tử, các vị Bồ-tát tỏ ngộ Viên Giác trong sáng, đem cái Tuệ Giác tỏ ngộ ấy biết Tâm Thức và Căn Cảnh toàn là huyễn ảo, nên nổi lên huyễn ảo để diệt trừ huyễn ảo, biểu hiện mọi phương tiện huyễn ảo mà hóa độ cho chúng sinh huyễn ảo. Vì nổi lên huyễn ảo như vậy nên bên trong phát ra sự thư thái Đại Bi. Các vị Bồ-tát đều từ Đại Bi này mà nổi lên việc làm, tuần tự tiến tới. Biết sự quán sát huyễn ảo là không phải huyễn ảo, rồi biết sự quán sát không phải huyễn ảo đó cũng là huyễn ảo: như vậy là huyễn ảo vĩnh viễn thoát bỏ. Việc làm tinh tế như thế này của các vị Bồ-tát tựa như đất đai tăng trưởng lúa má. Phương tiện như vầy gọi là mặt Cực Động Tam-Ma-Bát-Đề.

Thiện Nam Tử, các vị Bồ-tát tỏ ngộ Viên Giác trong sáng, đem cái Tuệ Giác tỏ ngộ ấy, không nắm lấy biểu hiện và tĩnh lặng, mà biết Thân Tâm toàn là chướng ngại. Cái biết ấy không như cái biết của các giác quan, không dựa vào Thân Tâm chướng ngại, nên vĩnh viễn siêu việt sự bị chướng ngại và sự không chướng ngại, thụ hưởng được trạng thái này: Thân Tâm và thế giới của Thân Tâm tuy còn ở trong lĩnh vực bụi bặm, nhưng, như tiếng ở trong hồng chung mà đã được đánh lên, kêu vang ra ngoài, Phiền Não với Niết Bàn không thể chận giữ người ấy, và bên trong phát ra sự thư thái vắng lặng. Vắng lặng như vậy là cảnh giới thích ứng của Tuệ Giác tinh tế, Thân Tâm của mình hay của người đều không thấu được, Chúng Sinh Tướng hay Thọ Giả Tướng, những khái niệm ấy toàn là ảo tưởng. Phương tiện như vậy gọi là mặt Cực Thuần Thiền-Na.

Thiện Nam Tử, ba phương tiện trên đây toàn là sự thích ứng thân nhất đối với Viên Giác. Mười phương Như Lai do ba phương tiện ấy mà trở thành Phật Đà. Bao nhiêu phương tiện của mười phương Bồ-tát, và tất cả sự đồng nhất hay sự dị biệt của bao nhiêu phương tiện ấy, toàn y cứ ba phương tiện như vầy. Ba phương tiện như vầy viên chứng được là được Viên Giác.

Thiện Nam Tử, giả sử có người tu tập Tuệ Giác Thuần Khiết, giáo hóa thành tựu trăm ngàn vạn ức La Hán và Duyên Giác, không bằng có ai nghe Ba Pháp Môn Vô Ngại này của Viên Giác mà thích ứng tu tập, dầu chỉ trong một đơn vị ngắn nhất của thì gian.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây .

Uy Đức Tự Tại,
Ông nên biết rằng
Viên Giác vô thượng
Bản Thể đồng nhất,
Phương tiện thích ứng
lại có vô lượng.
Như Lai bao quát
thành ra ba mặt:
về mặt Cực Tĩnh
như gương soi hình,
về mặt Cực Động
như đất lớn lúa,
về mặt Cực Thuần
như tiếng hồng chung.
Cả ba Pháp Môn
tinh tế như vầy
toàn là phương tiện
thích ứng Viên Giác.
Mười Phương Như Lai
cùng các Đại Sĩ
nhờ phương tiện ấy
thành Vô Thượng Giác.
Ba phương tiện ấy
nếu viên chứng được
là được viên chứng
Niết Bàn cứu cánh ./.

 

KINH VIÊN GIÁC: CHƯƠNG 06 _ THANH TỊNH TUỆ


KINH VIÊN GIÁC

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Thế-Tôn Nhập vào Chánh-Định tên là Kho-Tàng Ánh-Sáng Vĩ-Đại của Thần-Thông. Kho tàng ấy là chỗ ở giữ một cách sáng chói tôn nghiêm của các Đức Thế-Tôn, là tính Tuệ-Giác vốn rất trong suốt sạch sẽ của các loại chúng sinh. Đức Thế-Tôn Nhập vào Chánh-Định ấy nên Thân Thể và Tâm Trí đều vắng lặng, đồng nhất với bản thể phổ biến vũ trụ, nghĩa là thích ứng với Sự Bất-Nhị. Chính Sự Bất-Nhị này biểu hiện thế giới Trong Sạch. Đức Thế-Tôn ở nơi thế giới Trong Sạch này, và cùng ở với Ngài có Mười Ngàn vị Đại Sĩ mà các bậc đứng đầu là Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Di Lặc, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ, Bồ-tát Uy Đức Tự Tại, Bồ-tát Biện Âm, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng, Bồ-tát Phổ Giác, Bồ-tát Viên Giác, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ; các vị này, và các vị tùy thuộc, cùng Nhập vào Chánh-Định, nên cùng dự Pháp Hội Bình Đẳng của Đức Thế-Tôn.

 

CHƯƠNG 06 : THANH TỊNH TUỆ

Lúc ấy Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ ở trong Đại-chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân Đức Thế Tôn, theo chiều bên phải của Ngài đi quanh Ngài ba vòng, rồi quỳ thẳng, chắp tay mà tác bạch:

Thưa Đức Thế-Tôn lòng thương cao cả, Ngài đã nói cho chúng con, một cách rộng rãi, về những sự ngoài tầm Tư-duy Thảo-luận mà trước đây chúng con chưa được nghe thấy. Ngày nay chúng con nhờ sự Huân Dụ khéo léo của Đức Thế Tôn mà Thân Thể và Tâm Trí đều thư thái, được đại ích lợi. Con thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ dạy thêm nữa cho Đại-chúng này biết, đối với Viên Giác của Đấng Pháp Vương, các loại chúng sinh, các vị Bồ-tát, và các Đức Thế Tôn, thực hiện khác nhau thế nào ? Sự chỉ dạy này của Đức Thế Tôn sẽ làm cho người thời kỳ cuối cùng, đối với Viên Giác, có thể  tùy thuận, tỉnh ngộ, và tuần tự mà nhập vào.

Tác bạch rồi, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy Đức Thế Tôn. Bồ-tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ :

Tốt lắm, Thiện Nam Tử, Ông có thể vì các vị Bồ-tát, và những người sau này, mà hỏi Như Lai về Thứ Tự Sai Biệt trong Sự Thực Hiện Viên Giác. Ông hãy nghe kỹ, Như Lai sẽ nói cho.

Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ vâng lời, hoan hỷ, cùng cả Đại Chúng yên lặng lắng nghe.

Đức Thế Tôn dạy:

Thiện Nam Tử, Bản Thể Viên Giác không phải là các Chủng Tánh, nhưng Chủng Tánh nào cũng có Viên Giác, nên tùy các Chủng Tánh phát khởi mà có sai biệt, chứ thật ra không có thủ chứng gì hết. Vì lẽ trong Viên Giác, Bồ-tát và Chúng-sinh không phải có thật; Bồ-tát và Chúng-sinh toàn là Huyễn Ảo : Khi Huyễn Ảo Hủy-diệt thì không có ai là kẻ thủ chứng, tựa như con mắt đâu có tự thấy con mắt. Nên đặc tính của Viên Giác là Không Sai Biệt, một sự không sai biệt không phải do ai tạo ra. Nhưng Chúng-sinh mê mờ thác loạn, chưa thể hoàn toàn hủy-diệt Huyễn Ảo, và trong giai đoạn chưa hủy diệt mà đang hủy diệt đó, công phu tự lộ ra sai biệt. Đến khi thích ứng được với Viên Giác dứt bặt của Như Lai thì không còn sự dứt bặt, không còn người dứt bặt.

Thiện Nam Tử, Vô-thỉ đến giờ, chúng-sinh ảo tưởng Tự Ngã và tham mê Tự Ngã, không bao giờ tự biết Tự Ngã chỉ là trạng thái Phát-sinh và Hủy-diệt liên tiếp trong từng đơn vị ngắn nhất của thì-gian, do đó mà nổi lên Mặt thì ghét bỏ Mặt thì ưa thích, vướng mắc năm thứ dục lạc. Nếu gặp được Thầy bạn tốt dạy cho biết Bản Thể Viên Giác Trong Sáng, phát giác thực chất của sự nổi lên và sự hủy diệt, tức thì thấu hiểu đời sống này tự nó tạo ra tư tưởng mệt nhọc, và ước mong hủy diệt tư tưởng mệt nhọc ấy bằng cái biết Bản Thể Viên Giác Trong Sáng. Nhưng cái Biết này tự chướng ngại cho họ, nên họ không được Tự Tại đối với Viên Giác. Đó là sự thích ứng Viên Giác của phàm phu.

Thiện Nam Tử, các vị Bồ-tát thì Biết cái biết trên là chướng ngại, dẫu hủy diệt chướng ngại của cái biết trên, nhưng còn đứng nơi Cái Biết của mình, nên Cái Biết biết sự chướng ngại này lại thành chướng ngại mà chưa được Tự Tại. Đó là sự thích ứng Viên Giác của các vị Bồ-tát bước chưa tới Thập Địa.

Thiện Nam Tử, Cái biết nào cũng là chướng ngại, nên các vị Bồ-tát thường Biết mà không đứng lại nơi Cái Biết, thì Cái Biết và Người Biết cùng lúc vắng lặng, tựa như có người tự chặt đầu mình, đầu đứt rồi kẻ chặt đứt cũng không : đem Cái Biết biết sự chướng ngại mà tự diệt sự chướng ngại, sự chướng ngại diệt rồi, Cái Biết diệt chướng ngại cũng không. Biết Kinh Pháp cũng chỉ như ngón tay chỉ mặt trăng, hãy nhìn mặt trăng và biết ngón tay không bao giờ là mặt trăng cả ; biết mọi ngôn ngữ của Như Lai chỉ dạy cho Bồ tát toàn là như vậy. Đó là sự thích ứng Viên Giác của Bồ-tát bước đã tới Thập địa.

Thiện Nam Tử, Biết một cách Triệt-để về mọi sự chướng ngại : Chánh-niệm với Vọng-niệm toàn là Giải-Thoát, Hoàn-thành với Thoái-thất toàn là Niết-Bàn, Tuệ-Giác với U-mê toàn là Bát-Nhã, Bồ-tát Thành-đạt với Ngoại-đạo Thành-đạt toàn là Bồ-Đề, Chân-Như với Vô-Minh toàn là Bản Thể, Giới-Định-Tuệ với Dâm-Nộ-Si toàn là Phạm-Hạnh, Chúng-sinh với Quốc-độ toàn là Pháp-Tánh, Địa-ngục với Thiên-cung toàn là Tịnh-Độ, Có Chủng-Tánh với Không Chủng-Tánh toàn thành Phật-Đà, tất cả Phiền-não Cứu-cánh là Giải-Thoát : Biển Cả Tuệ Giác soi tỏ những khái niệm đối lập lẫn nhau toàn như Không-gian. Đó là sự thích ứng Viên Giác của Như Lai.

Thiện Nam Tử, các Vị Bồ-tát, và những người thời kỳ cuối cùng, nếu có ai không lúc nào nổi lên Vọng-niệm, đối với Vọng-niệm cũng không trừ khử, sống trong vọng cảnh mà Không Phân-biệt, cũng không nói Không Phân-biệt là Thật, thì người này nghe pháp thoại Viên-Giác này sẽ tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ, không kinh ngạc sợ hãi, và như thế chính là Thích-ứng Viên-Giác. Thiện Nam Tử, ông nên biết người này đã hiến cúng hàng trăm vạn ức hằng sa Phật Đà và Đại Sĩ, gieo trồng gốc rễ công đức, và Như Lai gọi người này là người Thành Tựu Tuệ Giác Biết tất cả Chủng-loại.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây .

Thanh Tịnh Tuệ này,
nên biết Bản Thể
Tuệ-Giác Viên Mãn
không có Thủ Chứng,
không có Bồ-tát
không có Chúng-sinh ;
vì đang Chứng Ngộ
hay đã Chứng Ngộ,
do đó mà có
thứ tự khác nhau.
Phàm phu thì bị
cái Biết chướng ngại ;
Bồ-tát cấp thấp
chưa rời cái Biết ;
Bồ-tát Thập-địa
vĩnh viễn dứt bặt,
không còn đứng lại
mọi cái Biết trên ;
Như Lai Đại-Giác
mới trọn thích ứng.
Những ai sau này
Tâm không Vọng Niệm,
Như Lai tuyên bố
những người như vậy
hiện tại đã là
một vị Bồ-tát,
quá-khứ hiến cúng
hằng sa Phật Đà,
và có đủ cả
mọi phẩm chất tốt.
Nói tóm bao nhiêu
phong cách trên đây
đều được gọi là
Thích Ứng Viên Giác./.

LUẬN GIẢI KINH VIÊN GIÁC – Chương 01 – Phần 04


KINH VIÊN GIÁC

CHƯƠNG 01:       VĂN THÙ

š(04)

KINH:

Thiện Nam Tử, Vô Minh như vậy là Không Phải Có Thật, y như nhân vật trong Mộng, Mộng thì thấy là Có mà Tỉnh thì biết là Không — Không đây là như Hoa Đốm mất đi trong Không Gian, thì không thể nói Không Gian có Cái Vị Trí Biến Mất, vì lẽ Không Gian vốn Không có Cái Vị Trí Sinh Ra. Trong sự Không-Sinh Không-Mất như vậy, các loại chúng sinh Thấy lầm Có-Sinh Có-Mất, nên gọi là Sinh Tử Luân Hồi ; còn Việc làm căn bản sơ khởi của Chư vị Như Lai là Tu theo Viên Giác : Biết là Hoa Đốm thì Biết Sinh Tử Luân Hồi là Không — Không , không phải làm cho không đi mới Không, mà là Thực Chất vốn Không. Biết là Hoa Đốm, Cái Biết ấy cũng là Không ; Cái Biết cũng là Không như vậy cũng chỉ là Sắc Thái Hoa Đốm ; và như thế thì cũng không thể nói rằng Không Biết Gì Cả : Có và Không đều loại bỏ thì gọi là Thích Hợp với Tuệ Giác Trong Sáng. Tuệ Giác Trong Sáng là vì Bản Thể vốn như Không Gian, Vĩnh Viễn Bất Động, nghĩa là Như-Lai-Tạng Không Có Sự Sinh Ra và Sự Mất Đi, Không có Cái Thấy Biết phản ảnh Sự Sinh Ra và Sự Mất Đi, mà là Bản Thể Vũ Trụ vốn Tuyệt Đối, Trọn Vẹn và Phổ Biến.

Như thế đó là Việc Làm Căn Bản Sơ Khởi Của Như Lai. Bồ-tát y theo căn bản ấy mà Ở trong Đại-Thừa Phát-tâm Trong Suốt. Và Những người thời kỳ cuối cùng y cứ căn bản ấy mà tu hành thì Không Sa vào Kiến Thức Sai Lầm.

LUẬN GIẢI:

Do xa rời Bản Tâm Viên Giác nên nói Vô Minh. Vì trong Bản Giác Tánh không có Vô Minh. Chỉ do nhận lầm Căn, Trần, Thức, Uẩn làm Tâm, Tâm phân biệt chấp Ngã vọng Thức nên có Sanh Diệt, có Sanh Tử Luân Hồi tạm giả gọi là Vô Minh. Dụ Vô Minh chỉ như cảnh Mộng, khi còn Mộng thì có cảnh Mộng, tỉnh dậy thì Mộng đâu còn. Cho nên Vô Minh không thực thể chỉ là hư vọng giả danh không thực.

Không thực có nơi Tánh Viên Giác chứ không phải hiện tượng Vô Minh đó không có.

Vì các Pháp có và không đều do duyên giả hợp mà huyễn-có _ huyễn-không.
Khi huyễn-có thì chúng chỉ như Hoa Đốm trong Hư Không.
Khi huyễn-không, không phải là “Không” của có và không, mà “Không” đây tức là Tự Tánh Thanh Tịnh, thấy biết như thật hết tất cả ba thời Quá khứ, Hiện tại và Vị lai nhưng không đắm không chấp cũng không dừng trụ lại bất cứ Pháp nào.

Vì Chân Tánh chúng đều Trong Suốt, ví như Chân Không Nội Nguyên Tử nên tất cả đều là Viên Giác.

Dòng Mật Pháp Vajra Pani
Nhóm Kim Cang Tử Đời Chữ Nhật
Nhật Mai

LUẬN GIẢI KINH VIÊN GIÁC – Chương 01 – Phần 03


KINH VIÊN GIÁC

CHƯƠNG 01:      VĂN THÙ

š(03)

KINH:

Thiện Nam Tử, Vô Minh là gì, là Những Sự Thác Loạn có từ Vô-thỉ đến giờ của các loại chúng sinh, Những Sự Thác Loạn tựa như Một kẻ Ngộ Nhận thì Bốn Phương Hướng biến đổi vị trí tất cả. Do đó mà ngộ nhận sự Tổ Hợp của Bốn Đại Chủng làm Tự Thân, ngộ nhận sự Nhận Thức về Sáu đối Cảnh làm Tự Tâm, khác nào mắt bịnh thì thấy Không Gian có Hoa Đốm, hay thấy Mặt Trăng có Mặt Trăng thứ hai chồng lên. Nhưng Không Gian thật không có Hoa Đốm, Hoa Đốm chỉ do người bịnh ngộ nhận : vì Sự Ngộ Nhận này mà không những Ngộ Nhận Sự Thực của Không Gian, lại còn Ngộ Nhận cả Xuất Xứ Chính Xác của Hoa Đốm, và vì như vậy mà có sự Sinh Tử Luân Hồi, có một cách không thật, nên mệnh danh là Vô Minh.

LUẬN GIẢI:

Vô Minh là gì ? Là Những Sự Thác Loạn, là xa rời sự thật, là Điên Đảo. Đó là Vô Minh có nghĩa là không nhìn thật vấn đề thực tại thực hữu hữu hạn hữu biên. Thế Gian là huyễn ảo, không thực có, chỉ là sự giả hợp nhân duyên mà chúng sanh cho là thật.

Đó là Sự Thác Loạn có từ Vô-thỉ, vì ngộ nhận mà dẫn dắt trùng trùng duyên khởi cho tới giờ, nên ngộ nhận giả cho là thật, thật cho là giả, vọng tưởng điên đảo, đảo lộn các phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc làm thay đổi vị trí tất cả nên che mờ Tánh Viên Giác.

Ngộ Nhận sự Tổ Hợp của Bốn Đại Chủng (Đất, Nước, Gió, Lửa) làm tự thân, nhưng nếu thiếu một trong Bốn Đại Chủng thì không sao gọi là thân.

 Đã biết Bốn Đại Chủng cũng từ “Không” mà huyễn có, huyễn không thật nên Bốn Đại Chủng cũng không thật. Rồi lại chấp có Bốn Đại, có Sáu Căn, có Sáu Trần, Sáu Thức là thật. Khi 6 Căn duyên 6 Trần thành có 6 Thức, chấp nhận hay không chấp nhận cho đó là Tâm, rồi phân biệt chấp-có _ chấp-không, chấp-ngã _ chấp-pháp, duyên cảnh trần, lầm Bóng lại cho là Ảnh, như Hoa Đốm giữa Hư Không, như Trăng đáy Nước … Tất cả chỉ là Điên Đảo trong biển Tâm Viên Giác, không khác nào Mắt bệnh Nhặm thì thấy Hư Không có Hoa Đốm, hay thấy Mặt Trăng có Mặt Trăng thứ hai chồng lên. Do tự ngộ nhận các pháp nhân duyên, cho là thật là không thật, là có là không có, nên mới có sự Sinh Tử Luân Hồi, có một cách không thật, nên mệnh danh là Vô Minh.

Dòng Mật Pháp Vajra Pani
Nhóm Kim Cang Tử Đời Chữ Nhật
Nhật Mai

LUẬN GIẢI KINH VIÊN GIÁC – Chương 01 – Phần 02


KINH VIÊN GIÁC

CHƯƠNG 01 :    VĂN THÙ

(02)

KINH:

Đức Thế-Tôn dạy:

Thiện Nam Tử, Đức Pháp Vương Vô Thượng có Pháp Đại TổngTrì danh hiệu là Viên Giác, tuôn ra Tất cả các Pháp Trong Sáng là Chân-Như, Bồ-Đề, Niết-Bàn và Ba-La-Mật, để dạy cho các vị Bồ-tát. Việc làm căn bản sơ khởi của Chư vị Như Lai là Y theo Viên Giác — Y theo Tuệ Giác Trong Suốt và Chiếu Soi trọn vẹn ấy mà diệt trừ Vô Minh một cách vĩnh viễn, mới Thành Đạt Tuệ Giác Phật Đà.

LUẬN GIẢI:

Đức Thế-Tôn dạy:
Như Lai có pháp Đại Tổng Trì Đà-La-Ni hiệu là Viên Giác, tuôn ra Tất cả các pháp Trong Sáng là Chân-Như, Bồ-Đề, Niết-Bàn và Ba-La-Mật, nghĩa là từ Chân Tánh thanh tịnh Viên Giác nhiếp thâu tất cả các pháp, có mà không thực có, không mà không thực không. Bởi Viên Giác đích thị là Viên Giác. Nên y theo Viên Giác mà diệt trừ Vô Minh một cách vĩnh viễn, mới Thành Đạt Tuệ Giác Phật Đà. Vì Vô Minh không thực có trong bản tính Viên Giác, chúng chỉ là huyễn cảnh của Tự Tâm Viên Giác.

Chỉ do ngộ nhận của 6 Căn duyên 6 Trần thành 6 Thức, lấy Thức đó làm Tâm, Tâm của chấp ngã phân biệt nên tạm nói là Vô Minh, nên muốn có Tuệ Giác Phật Đà chỉ chuyển đổi nhận thức mà hành theo bản Tâm Viên Giác thì đâu còn gọi là Vô Minh hay không Vô Minh, đâu còn nói là Viên Giác nữa.

Vì đích thị nó là vậy, Chân Thật Bản Thể Viên Giác vô duyên Từ, vô duyên Bi, vô duyên Hỷ, vô duyên Xã với vô lượng tâm tứ loài sanh.

 

Dòng Mật Pháp Vajra Pani
Nhóm Kim Cang Tử Đời Chữ Nhật
Nhật Mai