BẢN ĐỒ TU PHẬT_THIỀN TÔN_ĐẠI THỪA THIỀN_TẬP 4_PHẦN 2


SỰ TRUYỀN THỪA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA

1-. Ngài Bồ Đề Đạt Ma, Sơ tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa
Sau khi được ngài Bát Nhã Đa La, vị Tổ thứ 27 của Thiền Tôn ở Ấn Độ ấn chứng cho làm Tổ thứ 28; Ngài Bồ Đề Đạt Ma ở lại Ấn Độ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo.
Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Đế (528 DL) trị vì. Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và sự tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức, bề ngoài, nên Tổ Đạt Ma đã từ giã vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Tung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo. (Xem quyển Tổ Đạt Ma, do Hương Đạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là “Đạt Ma tổ sư thiền”. Trong thời gian chín năm Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài, đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Đó cũng là một phương pháp để dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Đó là ngài Thần Quang mà sau này được Tổ Đạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.
Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, Tổ Bồ Đề Đạt Ma còn truyền lại bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển rất có giá trị.
2-. Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa.
Ngài Thần Quang, nghe danh Tổ Đạt Ma đến cầu đạo, nhưng Tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng Tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình, dám xả thân cầu đạo, Ngài Thần Quang đã chặt đứt cánh tay của mình. Lúc bấy giờ Tổ Đạt Ma mới xoay lại hỏi:
_Ông đến đây để cầu gì?
Ngài đáp:
_Con cầu pháp an tâm.
Tổ bảo:
_Ông đem tâm đến đây ta an cho.
Ngài thưa:
_Con tìm tâm không được.
Tổ dạy:
_Ta đã an tâm cho ông rồi đó!
Ngài liền ngộ đạo. Tổ Đạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho ngài Huệ Khả:
Nguyên văn chữ Hán:
Ngô bổn lai tự độ
Truyền pháp độ mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch nghĩa:
Ta đến xứ Trung Hoa
Truyền pháp độ kẻ mê
Một bông trổ năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.

3-.Ngài Tăng Xáng, vị tổ thứ ba của Thiền Tôn ở Trung Hoa
Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho ngài Tăng Xáng làm vị Tổ thứ ba của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
4-.Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền Tôn ở Trung Hoa
Tổ Tăng Xáng truyền pháp cho ngài Đạo Tín là vị Tổ thứ tư. Từ Tổ Đạo Tín, sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây đứng đầu:
a). Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai
b). Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Đầu, cũng gọi là “Ngưu Đầu thiền”.
5-.Ngài Hoằng Nhẫn, vị tổ thứ năm của Thiền Tôn ở Trung Hoa
Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp bao hàm nhiều tánh chất nhẫn nhục sau đây:
Một hôm Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền Tôn, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi, có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được bao lâu, nên Tứ Tổ dạy:
_Ta đã già, ông cũng già! Nếu truyền pháp cho ông, ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy, nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho!
Ông già thưa:
_Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ đã tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được?
Đức Tứ Tổ dạy:
_Ta sẽ ở nán lại cõi đời để chờ ông.
Vâng lời Tổ dạy, ông già đi vòng theo dòng suối, thấy có một cô gái ngồi giặt bên bờ. Ông già hỏi:
_Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không?
Cô gái thưa:
_Ông hãy hỏi cha mẹ cháu.
Ông già nói tiếp:
_Nếu cô bằng lòng, tôi sẽ hỏi sau.
Cô gái trả lời:
_Dạ bằng lòng!
Được rồi, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác.
Còn cô gái kia, không có chồng mà bỗng nhiên có mang. Bị cha mẹ đuổi đánh, cô phải bỏ nhà đi xin ăn vất vả, nhẫn chịu không biết bao điều khổ nhục. Sau khi sanh đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Đứa bé trông thấy Tứ Tổ, mừng rỡ mở miệng cười. Tổ nói:
_Ta đang trông đợi ngươi đây!
Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý nói rằng: Tổ đã nhẫn nhục chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã nhẫn chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé.
Tổ Đạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rồi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị Tổ thứ năm của Thiền Tôn. Sau khi truyền đạo xong, Tứ tổ Đạo Tín mới viên tịch. (Theo Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).
6-.Ngài Huệ Năng, vị tổ thứ sáu của Thiền Tôn ở Trung Hoa
Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chữ, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho nhà một phú ông; trong khi chờ đợi, Ngài lắng nghe chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, ngài liền ngộ đạo.
Đợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trồ khen ngợi và hỏi rằng:
_Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy? Tôi cũng muốn được thọ trì tụng đọc như ông.
Phú Ông mách cho ngài:
_Tại núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngũ Tổ, thường truyền pháp độ người. Ông nên đến đó mà cầu đạo.
Ngài trả lời:
_Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt vì còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao!
Phú Ông bảo:
_Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo thì hãy về cố gắng đốn củi cho thật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.
Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi đem đến bán cho Phú Ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
Ngũ Tổ thấy ngài hỏi:
_Ông ở đâu đến và đến đây để cầu về việc gì?
Ngài đáp:
_Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật.
Ngũ Tổ thấy ngài hình thù tuy kỳ dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn cho trong chúng biết, nên giả quở to rằng:
_Ông là người mọi rợ ở phương Nam, mà cầu thành Phật cái gì?
Ngài Huệ Năng trả lời:
_Bạch Tổ sư, thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật Tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.
Ngũ Tổ sợ trong chúng để ý, lộ bí mật, nên chẳng hỏi han gì thêm nữa, mà truyền cho xuống nhà trù công quả giã gạo.
Từ đấy, Ngũ Tổ không nhắc nhở gì đến Ngài nữa, và ngài Huệ Năng, ngày ngày cũng cứ siêng năng cặm cụi giã gạo.
Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ Tổ thấy mình đã già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:
_Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì ta sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ Sáu.
Tin này được truyền ra rất mau chóng.
Trong chúng, mọi người đều nô nức, xôn xao, bàn tán:
_Trong chúng, chỉ có Thượng-tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng-tọa cũng sẽ được truyền Tổ-vị.
Nhưng Thượng-tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngũ Tổ. Thượng-tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không ký tên. Thượng-tọa Thần Tú nghĩ thầm: “Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không biết”.
Nguyên văn chữ Hán:
“Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thương phất thức
Dật sử nhá trần ai”.
Dịch nghĩa:
“Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường ngày hằng lau quét
Chớ cho dính bụi trần”.
Sáng ngày, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:
_Đây rồi ! kế Tổ vị đây rồi ! Nếu không phải Thượng-tọa Thần Tú thì còn ai nữa!
Nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức đến xem bài kệ, ngài Huệ Năng cũng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, ngài Huệ Năng nói:
_Còn đứng ngoài cửa rào.
Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế bĩu môi:
_Đã không biết một chữ thế kia mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào!
Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo:
_Tôi cũng có một bài kệ, xin các ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ.
Một người liền hoan hỷ viết hộ: Ngài Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:
Nguyên văn chữ Hán:
“Bồ đề bổn vô thọ
Tâm phi minh cảnh đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhá trần ai?”
Dịch nghĩa:
“Bồ đề vốn không cây
Tâm không phải đài gương
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi trần?”
Nghe xong bài kệ, mọi người trong chúng đều kinh ngạc: không ngờ một người không biết chữ như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc, thâm diệu như thế!
Ngũ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận có thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng-tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng.
Một  buổi chiều, Ngũ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng:
_Gạo đã trắng chưa?
Ngài Huệ Năng đáp:
_Bạch, gạo con giã đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng.
Mật ý Ngài muốn nói: “Đạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền”.
Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên đầu chày ba cái rồi đi lên (Ngũ Tổ muốn bảo ngài Huệ Năng canh ba vào phòng). Đúng canh ba, ngài Huệ Năng vào phòng Ngũ Tổ. Ngài được Ngũ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm Tổ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương Nam ngay đêm hôm ấy, để truyền đạo (xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).
Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Nam chủ trương về đốn ngộ; phương Bắc chủ trương về tiệm tu, nên gọi là “Nam đốn, Bắc tiệm”.
Sau đây là bản lược đồ về sáu vị Tổ Thiền Tôn ở Trung Hoa:
Sơ Tổ     : Ngài Bồ Đề Đạt Ma
Nhị Tổ    : Ngài Huệ Khả (Thần Quang)
Tam Tổ  : Ngài Tăng Xáng
Tứ Tổ     : Ngài Đạo Tín
Ngũ Tổ   : Ngài Hoằng Nhẫn , Ngài Ngưu Đầu Thiền Sư
Lục Tổ    : Ngài Huệ Năng, Ngài Thần Tú.
Từ ngài Lục Tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các Tổ cũng không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền Tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:

                                                                                     HAI PHÁI và NĂM DÒNG
Ngài Huệ Năng từ khi lên làm Lục Tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nổi tiếng hơn hết là ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc, và ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Đàn Kinh). Hai ngài này mở đầu cho hai phái Thiền Tôn là phái Nam Nhạc và phái Thanh Nguyên.
Phái Nam Nhạc về sau lại chia làm hai dòng là: Lâm Tế và Quy Ngưỡng.
Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Động, Vân Môn, và Pháp Nhãn.
Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.
 
LỤC TỔ HUỆ NĂNG
HAI  PHÁI         NĂM  DÒNG

I.-Ngài Hoài Nhượng  (ở Nam Nhạc)
1.-Lâm Tế
2.-Quy Ngưỡng       

II.-Ngài Hành Tú  (ở Thanh Nguyên)
3.-Tào Động    
4.-Vân Môn
5.-Pháp Nhãn

_Hết Phần 2_Tập 4_