BẢN ĐỒ TU PHẬT_TẬP 07_TAM LUẬN TÔN-PHẦN 02


IV.-PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Chúng ta đã thấy ở các phần trên, chủ trương của Tam luận tôn là phá tà, và do chỗ phá tà ấy mà hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành của tôn này là làm sao nhận rõ được những chỗ sai lầm chấp trước của ngoại đạo và các tôn phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán “Bát Bất Trung Đạo”.
Bát Bất tức là: Bất Sinh, Bất Diệt; Bất Đoạn, Bất Thường; Bất Nhứt, Bất Dị; Bất Khứ, Bất Lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được lý nghĩa của trung đạo.
Phép quán này có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của “Bát Bất”; chẳng hạn giai đoạn thứ nhất quán về “Bất Sinh, Bất Diệt”; giai đoạn thứ hai quán về “Bất Đoạn, Bất Thường”..v.v…
Trong mỗi giai đoạn như thế, phải quán năm câu:
1.-Câu thứ nhất: “Thật có Sinh, thật có Diệt”. Ấy là giả thiết thật có sanh diệt như thế gian thường chấp, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn tục (đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp, chưa hiệp với trung đạo.
2.-Câu thứ hai: “Không Sanh không Diệt”. Ấy là chấp không sanh không diệt làm thật, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên chấp, không hiệp với trung đạo.
3.-Câu thứ ba: “Giả Sanh giả Diệt”. Ấy là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ nơi bất sanh bất diệt. Đây tức là trung đạo về thế tục.
4.-Câu thứ tư: “Giả Bất Sanh, giả Bất Diệt”. Nếu sanh diệt đều giả, thời sự bất sanh bất diệt cũng là giả. Ấy là trung đạo về Chơn đế.
5.-Câu thứ năm: “Không phải Sanh Diệt mà cũng không phải là Không Sanh Diệt”. Đây là dung hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt mà cũng không phải không sanh diệt. Đến đây là bặt dứt lời nói thô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.
Trong năm câu này, thì ba câu cuối (từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong phép quán này, người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để quán sát.
Trên đây là chỉ đưa ra một thí dụ về một giai đoạn trong phép “Quán Trung Đạo Bát Bất”. Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất “Bất Sinh, Bất Diệt”, hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là “Bất Đoạn, Bất Thường”. Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái “Bất”.
Đây là phép quán riêng biệt của Tam Luận Tôn. Ngoài ra, trên đường tu hành, hành giả còn tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục Độ Vạn Hạnh.
V.-QUẢ VỊ TU CHỨNG
Giáo lý đã có phân chia làm chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng phải đứng về cả hai phương diện mà xét.
1.-Chơn đế: Nếu đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là Phật rồi.
2.-Tục đế: Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm, có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu “Chánh quán bát bất”, chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt, thì phải trải qua ba đại kiếp tu hành lục độ, vạn hạnh, mới được thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị.
Trong các tôn khác đã trình bày trong Bản Đồ Tu Phật, quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam Luận Tôn này, chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các quả vị ấy; và để sau này, khi qua các tôn khác, nếu quý độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ, 52 quả vị ấy là:
*Thập Tín (10 bậc lấy đức tin làm gốc):
1.-Tín tâm
2.-Tinh tấn tâm
3.-Niệm tâm
4.-Định tâm
5.-Huệ tâm
6.-Thí tâm
7.-Giới tâm
8.-Hộ tâm
9.-Nguyện tâm
10.-Hồi hướng tâm
*Thập Trụ : Trụ là an trụ. Các vị Bồ-tát khi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh. Thập Trụ là:
1.-Phát tâm trụ
2.-Trị địa trụ
3.-Tu hành trụ
4.-Sanh quý trụ
5.-Phương tiện trụ
6.-Chánh tâm trụ
7.-Bất thối trụ
8.-Đồng chơn trụ
9.-Pháp vương tử trụ
10.-Quán đảnh trụ
*Thập Hạnh : Mười bực này chú trọng tu hạnh lục độ nhiều hơn các hạnh khác, nên gọi là Hạnh. Mười hạnh là:
1.-Hoan hỷ hạnh
2.-Nhiêu ích hạnh
3.-Vô nhuế hạnh
4.-Vô tận hạnh
5.-Ly si loạn hạnh
6.-Thiện hiện hạnh
7.-Vô trước hạnh
8.-Tôn trọng hạnh
9.-Thiện pháp hạnh
10.-Chơn thiệt hạnh
*Thập hồi hướng : Hồi nghĩa là xoay về. Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:
a).Xoay sự về lý, lấy chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.
b).Xoay nhơn về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.
c).Xoay mình về nơi người, một lòng bình đẳng, phổ độ chúng sanh.
Mười hồi hướng là:
1.-Cứu độ chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng, nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà không chấp trước về sự cứu giúp.
2.-Bất hoại hồi hướng, nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.
3.-Đẳng chư Phật hồi hướng, nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cũng bằng chư Phật.
4.-Chí nhứt thế xứ hồi hướng, nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều chu đáo.
5.-Vô tận công đức tạng hồi hướng, nghĩa là chất chứa công đức vô tận.
6.-Tùy thuận nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng, nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành bền chặt.
7.-Đẳng tâm tùy thuận nhứt thế chúng sanh hồi hướng, nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận hết thảy chúng sanh.
8.-Như tướng hồi hướng, nghĩa là làm các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.
9.-Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng, nghĩa là không chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.
10.-Pháp giới vô lượng hồi hướng, nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.
Bốn mươi quả vị trên này (Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thời gian tu tập thì thuộc vào Kiếp A-tăng-kỳ thứ nhất.
*Thập địa : Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hành, nên gọi là Địa. Mười địa là:
1.-Hoan hỷ địa
2.-Ly khổ địa
3.-Phát quang địa
4.-Diệm huệ địa
5.-Nan thắng địa
6.-Hiện tiền địa
7.-Viễn hành địa
8.-Bất động địa
9.-Thiện huệ địa
10.-Pháp vân địa
Trong Thập Địa, mỗi địa đều có ba tâm: nhập, trụ, xuất. Khi vừa bước vào một bực nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là xuất tâm. Ba tâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâm về Sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A-tăng-kỳ thứ hai. Từ Bát địa (tức Bất Động địa) đến Thập địa (tức Pháp Vân địa) thuộc về kiếp A-tăng-kỳ thứ ba.
Đẳng giác : Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Đẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.
Diệu giác : Tức là Phật quả Tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Diệu giác. Bực này, vì các lậu nghiệp đã hết sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên cũng gọi là Vô học đạo.
VI.-KẾT LUẬN
Như chúng ta đã thấy ở phần trên, Tam Luận tôn chủ trương “lấy phá làm lập”, phá tất cả những sự chấp trước của ngoại đạo, của Tiểu thừa Tỳ-đàm, của Thành Thật tôn và của cả một số người tu theo Đại thừa nữa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đang đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải phá dẹp tất cả những hình bóng phỉnh phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.
Theo thiển kiến chúng tôi, trong Bản Đồ Tu Phật, Tam Luận tôn không phải là một con đường tu như các Tôn khác, mà đúng hơn là một cửa Ải: những hành giả muốn đi từ Tiểu thừa hay từ Đại thừa Thỷ giáo sang Đại thừa Đốn giáo hay Viên giáo thì phải đi ngang cửa Ải Tam Luận tôn. Đến cửa Ải này, hành giả bị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý “chấp trước” gì, thì không thể qua cửa Ải này được. Hành giả khi qua cửa Ải này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh, diệt, thường, đoạn, nhất dị v.v…
Vậy chúng ta mong mỏi quý vị Phật tử muốn đi xa vào thế giới Trung Đạo hay Viên Giác thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam Luận tôn.
Chúc quý độc giả thành công.

 Hết Tập 07