BẢN ĐỒ TU PHẬT – TẬP II – TỊNH ĐỘ TÔN – Phần 01
CON ĐƯỜNG TU THỨ HAI TRONG 10 TÔN
TỊNH ĐỘ TÔN
Con đường tu thứ hai trong mười tôn là Tịnh Độ tôn. Tôn này thuộc về Đại-thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để được vãng sanh về cảnh Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh Độ tôn.
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dễ tu, dễ chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, cũng có thể tu chứng được cả. Nếu đem so sánh với con đường đi, thì tôn này là một đại lộ bằng phẳng, rộng rãi mát mẻ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
Bởi những lẽ ấy, từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt Nam chúng ta, ngày xưa cũng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn này. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn tập sách này để giới thiệu “con đường tu thứ hai” trong mười tôn phái của Phật giáo.
I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tịnh Độ tôn căn cứ vào những kinh điển gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh Độ tôn đã y cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Đó là các bộ:
1.- Kinh Vô Lượng Thọ: Kinh này chép lại 48 lời thệ nguyện của Đức A Di Đà, khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: Sau khi thành Phật, Ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Ngài.
2.- Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Kinh này chép rõ 16 phép quán và 9 phẩm, để được vãng sanh về cõi Tịnh Độ.
3.- Kinh Tiểu bổn A Di Đà: Kinh này lược tả cảnh giới cõi Cực lạc trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sinh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn “trì danh niệm Phật” cho đến “nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này là ba kinh chính: cổ nhân thường gọi là “Ba kinh Tịnh Độ”. Ngoài ra còn các kinh khác như:
_ Kinh Bửu Tích, chép việc Đức Phật vì vua Tịnh Phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn “trì danh niệm Phật” để cầu sanh về thế giới Cực lạc.
_ Kinh Đại bổn A Di Đà, kinh Thập lục quán, kinh Ban Châu niệm Phật, kinh Bi Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa Nghiêm, .v.v…
Giáo điển về Tịnh Độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Đông Tấn nhờ ngài Huệ Viễn đại sư ra công hoằng dương, tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như ngài Đàm Loan, ngài Đạo Xước, ngài Thiện Đạo, v.v…đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
II.- BỐN LOẠI TỊNH ĐỘ
Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Đứng về phương diện tính chất, từ tế đến thô, có thể chia làm bốn loại Tịnh độ sau đây:
1.- Thường Tịch Quang Tịnh Độ: Đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. “Thường” là không thay đổi, không sanh diệt tức Pháp thân Phật; “Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm tức là đức Giải thoát của Phật. “Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương tức là đức Bát nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là thường, tịch và quang, cho nên gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác “thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi, thì thân và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà tạm gọi là có thân, có độ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về thân thì gọi là “Pháp thân”, còn đứng về độ, thì gọi là “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
Kinh Tịnh Danh, về lời sớ, có chép “tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
2.- Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ: Hành giả trải qua ba vô số kiếp tích công lũy đức, do phước báo tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chân thật nên gọi là “Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Cảnh giới Tịnh độ này, là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán-Vô-Lượng Thọ về lời sớ có chép: “tu tập chơn thật, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là “Thật Báo Trang Nghiêm”. Bên Đại-thừa Viên-giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên Đại-thừa Biệt-giáo, thì đây là cõi của các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ tát.
3.- Phương tiện Hữu Dư Tịnh Độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này, tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (dục giới, sắc giới và vô sắc giới), nhưng còn dư lại hai hoặc là vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là “hữu dư”. Đã là “hữu dư” tức là chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi Tịnh độ này là “Phương tiện Hữu Dư Tịnh Độ”.
4.- Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ: Đây tức là cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà ở Tây Phương. Đã gọi là Tịnh độ, hay Cực lạc tất nhiên có đủ các đức thanh tịnh, trang nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với các chúng sinh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là “Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ”.
Vì phần đông tín đồ Phật giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh Độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh Độ này, tức là cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh “Tiểu bổn A Di Đà” thuật lại lời Đức Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này;
“Từ cõi Ta bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Vị giáo chủ ở thế giới ấy là Phật A Di Đà, thường hay nói Pháp. Cõi ấy có 07 lớp câu lưu (tường hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có “hồ thất bảo” đầy “nước tám công đức”. Đáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.
Trên không trung, hòa lẫn trong những bản nhạc thiêng liêng, có những tiếng chim hót, do Phật hóa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng pháp nhiệm mầu.
Cảnh giới Cực lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A Di Đà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát. Thánh chúng chung nhau tạo thành”.
(1) Chữ A Di Đà, người Trung Hoa dịch là “Vô lượng thọ”, hay “Vô lượng quang”, nghĩa là Đức Phật này sống lâu không lường và hào quang sáng chói cũng không lường.
III.- BA YẾU TỐ ĐỂ CẦU SANH VỀ TỊNH ĐỘ
Muốn được vãng sanh về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị đủ ba yếu tố sau đây là: Tín, Hành và Nguyện. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư lương; nếu thiếu một món nào, cũng không thể tu hành có kết quả.
1.- Thế nào là “Tín”? – Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Đức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Tin là mẹ sanh ra các công đức”. Nhờ đức tin mà quả Bồ đề có thể thành tựu được.
Tin có ba phần:
a) Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng Từ-bi muốn cứu khổ sanh tử luân hồi cho chúng sanh mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật để chúng sanh thực hành theo mà được vãng sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Đức Phật Thích Ca không hư dối, Đức Phật A Di Đà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
b) Tin Pháp: Tin rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyện của Phật A Di Đà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà.
c) Tin mình: Tin rằng minh có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp môn này. Tin rằng nếu mình thật hành đúng như lời Phật Thích Ca đã chỉ dạy trong kinh A Di Đà, chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà cho đến “nhất tâm bất loạn” thì khi lâm chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
2.- Thế nào là “Nguyện”? – Nguyện là lời hứa hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của chiếc máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho người tu hành mau đến mục đích.
Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà.
Để có một ý niệm về chữ “Nguyện”, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà khi còn làm Pháp Tạng Tỳ kheo:
_ “Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương, một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu không đặng vãng sanh, thời ta thề không thành bậc Chánh Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp”.
_ “Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới phát-tâm Bồ-đề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, giá như ta không cùng với đại chúng đoanh vây hiện ra ở trước mắt, thời ta thề không thành bậc Chánh Giác”.
_ “Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thời ta thề không thành bậc Chánh Giác”.
3.- Thế nào là “Hành”? – Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ là ước ao mong muốn ảo huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, tín, nguyện, hành ba yếu tố căn bản này bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đứng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.
(HẾT PHẦN 01-TẬPII-TỊNH ĐỘ TÔN)