BẢN ĐỒ TU PHẬT – TẬP 07 – HOA NGHIÊM TÔN – PHẦN 01


CON ĐƯỜNG TU THỨ BẢY TRONG MƯỜI TÔN
HOA NGHIÊM TÔN
(HIỀN THỦ TÔN)
 *****

I.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tôn này thuộc về Đại-thừa căn cứ theo giáo nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà Đức Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa Nghiêm tôn.
Người sáng lập ra tôn này là ngài Đỗ Thuận, một vị Hòa thượng đời Đường. Ngài đã thâu góp ý nghĩa mầu nhiệm của kinh Hoa Nghiêm, làm ra bộ “Pháp giới quán”.
Người kế vị ngài Đỗ Thuận là ngài Trí Nhiễm, ở chùa Chí Tướng. Ngài Trí Nhiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa lý của tôn này như các bộ: “Sưu huyền ký”, “Thập huyền môn”, “Ngũ thập yếu vấn đáp”.
Vị thừa kế ngài Trí Nhiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với tôn này là ngài Pháp Tạng, cũng gọi là ngài Hiền Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ “Thám huyền ký” và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa Nghiêm tôn rất được thạnh hành và phát triển trong thời Ngài. Do đó, Tôn này cũng thường gọi là Hiền Thủ tôn. Sau khi ngài Hiền Thủ viên tịch được ít lâu, kinh Hoa Nghiêm được dịch lại bằng Hán văn bộ mới, ngài Trừng Quán, tức là Thanh Lương quốc sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa Nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ “Hoa Nghiêm sớ sao”, bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa, mầu nhiệm của Hoa Nghiêm kinh. Vì thế, Hoa Nghiêm tôn lại càng được người đời sùng mộ, nhất là trong thế giới thượng lưu trí thức nước Tàu.
II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN
Trong các bộ kinh của Đức Phật, kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao sâu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tử, căn cơ minh mẫn, lanh lẹ mưới có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa nghiêm tôn chỉ thích hợp cho những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và đã quen với lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật. Đem một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách phổ thông như thế nầy, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý của Hoa nghiêm tôn. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ 10 tôn phái của Phật giáo, và để quý độc giả có đủ tài liệu để so sánh sự sai khác của mỗi tôn, chúng tôi không thể không nói đến Hoa nghiêm trong khi điểm qua tôn chỉ và giáo lý căn bản của mười tôn. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tôn này, và cũng mong mỗi quý vị độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày này, ngõ hầu vấn đề được sáng tỏ.
Tôn này được gọi là “Viên giáo”, nghĩa là giáo lý viên dung, hoàn toàn đầy đủ.
Tôn này chủ trương “Pháp giới duyên khởi”, nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật nhỏ như hạt bụi cho đến một vật lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng tột, dung thông nhau, đối chọi nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi pháp, mỗi pháp, trong vũ trụ không hề tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có được. Cái này có, là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tột, cho nên cũng gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”.
Vì là trùng trùng duyên nhau, nên một là thảy hết là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh Hoa nghiêm đã nêu lên pháp môn “Sự sự vô ngại pháp giới”.
Để hiểu rõ nghĩa lý của pháp môn này, chúng ta hãy đi theo phép quy nạp gồm có bốn giai đoạn sau đây, cũng gọi là bốn pháp giới:
1.-Sự pháp giới:
Sự là nói về các hình tướng sai biệt của các pháp trong vũ trụ. Trong vũ trụ, các pháp đều có giới hạn rõ ràng, như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hơi nước, đều có tướng trạng khác nhau. Đó là đứng về sự mà quan sát vũ trụ vạn hữu, hay nói theo danh từ đạo Phật là “Sự Pháp giới”.
2.-Lý Pháp giới:
Lý là nói về cái phần bên trong, vô hình của sự vật. Đây tức là lý tánh bình đẳng; chỗ nương tựa cho tất cả sự tướng; lý dung thông khắp tất cả, như nước lạnh, nước đá, hơi nước, tuy tướng trạng khác nhau, nhưng thể tánh vẫn là một (nghĩa là gồm H2 + O). Vũ trụ vạn hữu không chỉ có phần sự tướng mà còn có phần lý tánh nữa. Đó tức là “Lý pháp giới”.
3.-Lý Sự vô ngại Pháp giới:
Như trên chúng ta đã thấy, mỗi pháp đều có Sự và Lý. Lý do nơi Sự mà rõ, Sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự trong mỗi pháp đã dung thông, thì Lý Sự trong Pháp giới cũng dung thông, vô ngại. Đó là ý nghĩa của “Lý, Sự vô ngjai Pháp giới”.
4.-Sự Sự vô ngại Pháp giới:
Trong Pháp giới, có hằng hà sa số sự vật, hình tướng tuy khác nhau, giới hạn tuy bất đồng, nhưng lý tánh lại dung thông, bình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Nhờ Lý, mà Sự Sự được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng điện, nào quạt điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò điện v.v… tuy mỗi vật đều có hình dáng, công dụng sai khác, nhưng đều thông nhau qua luồng điện chi phối lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác: nhiều hồ chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng những ống nước, do đó sự đầy vơi, nhớp sạch của một hồ này đều liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.
Trên đây là những thí dụ vô cùng thô thiển, cốt để gợi lên một ý niệm về “Sự Sự vô ngại Pháp giới” thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên, chúng ta lấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước để hình dung cho Sự Sự trong Pháp giới, và lấy những luồng điện hay luồng nước để hình dung cho Lý của Pháp giới. Thí dụ như thế, người ta sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có thể phân tách ra được. Nhưng thật ra, Lý và Sự không thể phân tách được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự Lý chẳng qua là hai phương diện của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của chúng ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.
Để tóm tắt ý nghĩa của bốn pháp giới này, chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau:
Pháp giới gồm triệu triệu sự vật khác nhau, như A, B, C, v.v… (Sự Pháp giới).
Trong mỗi sự vật đều có lý tánh bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (Lý Pháp giới).
Lý tánh bình đẳng ấy dung thông với tất cả mọi sự vật, Như A=L; B=L; C=L (Lý, Sự vô ngại Pháp giới).
Nhờ lý tánh dung thông với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông nhau, vô ngại đối với nhau, như A=B=C v.v… (Sự Sự vô ngại Pháp giới).
SÁU TƯỚNG VÀ MƯỜI LÝ HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP
Trong Pháp giới, sở dĩ sự sự được vô ngại, dung thông, là do các pháp đều có đủ “sáu tướng” và “mười lý huyền diệu” sau đây:
SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG
Dựa theo bộ kinh Hoa Nghiêm, ngài Bồ tát Thế Thân đã làm ra bộ “Thập Địa luận” để giải thích nghĩa lý của sáu tướng (lục tướng). Sáu tướng này được gọi là viên dung (vì nó có những đức tính viên mãn, dung thông, vô ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy là:
1.-Tổng tướng: Tổng tướng là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả các tướng sai biệt. Như khi ta nói đến cái nhà, là gồm tất cả cột kèo, tường, mái, đá gạch v.v… Vậy cái nhà tức là tổng tướng.
2.-Biệt tướng: Biệt tướng là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng cộng lại thành tổng tướng. Như các biệt tướng trong cái nhà là cột, kèo, tường, mái, gạch, đá v.v… Đã có Tổng thì tức phải có Biệt; nếu không có Biệt, thì không thể lấy gì mà gọi là Tổng.
3.-Đồng tướng: Đồng tướng là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau, không ngăn ngại nhau, không trái chống nhau. Như cột, kèo, tường, mái, tuy khác nhau, nhưng không ngăn ngại nhau mà vẫn hướng đồng về một mục tiêu chung là cái nhà.
4.-Dị tướng: Dị tướng là các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng không giống nhau, mặc dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một nhiệm vụ chung; như cột, kèo, tường, mái, trong một cái nhà, không cái nào giống cái nào. Dị tướng không phải là biệt tướng, cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.
Như 100 đồng bạc là tổng tướng. Tổng tướng này là tổng cộng của các tờ giấy bạc: 1 tờ 50 đồng, 2 tờ 20 đồng, 1 tờ 10 đồng (50+40+10=100). Những tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng là biệt tướng. Những tờ giấy bạc này to nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau là dị tướng. Mặc dù là hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ bạc cả, tánh chất “bạc” ấy là đồng tướng.
5.-Thành tướng: Thành tướng là tướng thành tựu. Sự chung cùng để thành ra một cái gì, đó là thành tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của các cột, kèo, tường, mái v.v… Vậy cái nhà, đứng về phương diện công dụng để ở, là thành tướng của các cột, kèo, tường, mái v.v… Nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền là thành tướng của những tờ 50 đồng, 20 đồng, 10 đồng. Nhờ sự kết hợp của những số tiền này mà có được số bạc 100 để mua được một vật gì đó, như thế là thành tướng.
6.-Hoại tướng: Hoại tướng là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột, kèo, tường, mái …, trong khi hợp tác với nhau, để thành cái nhà, thì vẫn giữ địa vị riêng của chúng nó là cột, kèo, tường, mái, chứ không phải vì thành cái nhà mà chúng nó không còn là cột, kèo, tường, mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành số bạc 100 đồng, các tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫn là những tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng và vẫn giữ cái giá trị riêng của mỗi thứ.
Sáu tướng này phân ra làm ba đôi, gọi là “tam đối lục tướng”:
-Tổng, Biệt cùng đối nhau, thuộc về Thể.
-Đồng, Dị cùng đối nhau, thuộc về Tướng.
Thành, Hoại cùng đối nhau, thuộc về Dụng.
Nếu chúng ta lấy con sư tử bằng vàng làm thí dụ, thì toàn thể thân hình của nó là Tổng tướng; mỗi bộ phận riêng rẽ như tai, mắt, mũi, lưỡi là Biệt tướng; chất vàng của nó là Đồng tướng; mỗi bộ phận có hình dáng riêng khác là Dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa hiệp với nhau để thành hình con sư tử là Thành tướng; nhưng mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại tướng.
Khi chúng ta nói đến Tổng, Đồng, Thành là nói về phương diện toàn thể, viên dung bình đẳng của bản thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy mỗi mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ khác nhau. Theo trong kinh Hoa Nghiêm thì Tổng, Đồng, Thành tướng thuộc về môn viên dung; còn Biệt, Dị, Hoại tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là hiển lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt tương tức, tương nhập, viên dung không ngại. Tương tức nghĩa là cái này tức là cái kia, như nước tức là sóng, tương nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau, như mặt gương này và mặt gương kia phản chiếu vào nhau không cùng mà không cản trở gì nhau. Vì tương tức, tương nhập, nên lìa tổng tướng thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thì không dị tướng, lìa thành tướng thời không hoại tướng. Tóm lại, viên dung không lìa hàng bố, hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố, hàng bố tức viên dung. Hết thảy các pháp đều đủ sáu tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức_nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 06 Tướng viên dung. Đấy là ý nghĩa huyền diệu của Hoa Nghiêm nhất thừa viên giáo.
MƯỜI LÝ HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP
HAY MƯỜI HUYỀN MÔN
Ngoài sáu tướng nói trên, các pháp còn có 10 lý huyền diệu, hay 10 đức tính huyền diệu, mà bộ kinh Hoa Nghiêm sớ sao và bộ Tham huyền ký của ngài Hiền Thủ có giải thích như sau:
1.-Môn “đồng thời đầy đủ các pháp tương ưng” (đồng thời cụ túc tương ưng): Nghĩa là trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Như một giọt nước có đủ khí vị của muôn ngàn sông, biển.
2.-Môn “rộng và hẹp tự tại không ngại” (quảng hiệp tự tại vô ngại): Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn, một vật gọi là nhỏ, chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông, có thể chứa được cả thái hư mà còn rộng. Một vật lớn như thái hư, có thể nằm gọn trong đầu mảy lông, mà không chật. Đây muốn nói rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô ngại, dung thông thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông, không có biên giới nhất định giữa một vật này và một vật khác; một vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật lớn như vũ trụ có liên quan đến một vi trần. Cho nên kinh Hoa Nghiêm có chép: “Trong một mảy trần, hết thảy cõi nước rộng rãi an trụ”. Để giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy: “Sự nhờ Lý mà được dung thông tự tại không ngăn ngại”.
3.-Môn “một và nhiều dung nhau không đồng” (nhất, đa tương dung bất đồng): Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng một gian nhà, ngọn này ngọn kia lẫn hiệp với nhau, nhưng ngọn nào cũng vẫn có cái ánh sáng riêng của nó.
4.-Môn “các pháp tương tức tự tại” (chư pháp tương tức tự tại): Nghĩa là các pháp cùng dung, cùng tức, không ngần ngại nhau. Như một pháp khi bỏ mình đồng với các pháp khác, thì toàn thể đều về nơi pháp kia; nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thì hết thảy cá pháp kia lại về nơi một pháp thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.
5.-Môn “ẩn mật, tỏ rõ đều thành” (bí mật ẩn hiển câu thành): Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiển thì phương diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn thì phương diện này hiển; trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn; ẩn hiển đắp đổi nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiển ấy cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngần ngại, chống đối nhau. Như một pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến vàng thì không thấy cái đẹp của pho tượng, khi chú ý đến cái đẹp của pho tượng thì không thấy vàng. Tóm lại, khi cái đẹp hiện thì vàng ẩn, khi vàng hiển thì cái đẹp ẩn.
6.-Môn “vi tế dung nhau, an lập” (vi tế tương dung an lập): Vi tế nghĩa là nhỏ nhiệm mà rõ ràng. Một vật nhỏ nhiệm có thể bao trùm một vật nhỏ nhiệm khác mà không cản trở nhau, không phá hoại cái tướng của nhau. Như một giọt nước bao gồm nhiều hạt nước, mỗi hạt nước gồm nhiều hóa chất, mỗi hóa chất gồm nhiều nguyên tử, mỗi nguyên tử gồm nhiều điện tử, giữa những điện tử có cái nhân: Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.
7.-Môn “cảnh giới tướng võng nhơn đà la” (Nhơn đà la võng cảnh giới): Nhơn đà la tức là phiên âm của chữ Indra là cõi trời Đế Thích. Theo Bà la môn giáo, thì trên cõi trời Nhơn đà la, có cái màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bửu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này hạt khác phản chiếu nhau chói sáng lẫn nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tận. Kinh Hoa Nghiêm có chép: “Hết thảy thế giới đều như thế giới màn lưới Nhơn đà la”.
8.-Môn “nhơn sự rõ pháp, sanh trí hiểu biết” (thác sự hiểu pháp sanh giải): Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Đây muốn nói trí hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật, như vết dầu lan trên mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy rất xa.
9.-Môn “mười đời cách pháp dị thành” (thập thế cách pháp dị thành): Đây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành một cách dễ dàng. Tại sao chia thời gian thành mười đời mà không chia làm ba đời? Đáng lẽ chỉ nói quá khứ, hiện tại, tương lai là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi, trong Kinh chia mười đời như sau: trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại, tương lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và tương lai cũng vậy; ba đời, mỗi đời lại chia nhỏ làm ba thành chín. Nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên ngoài chín niệm biệt ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa, thành ra mười.
10.-Môn “chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn” (chủ, bạn, viên minh, cụ đức): Như chúng ta đã thấy ở các phần trên: các pháp nương nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức, lớp lớp không cùng tận, như mặt trăng sáng trên không, chung quanh đoanh vây những vì sao nhấp nháy, rồi trên mặt đất, bao nhiêu sông, ngòi, ao hồ, lại phản chiếu ánh sáng trăng sao ở trên không, làm cho cảnh vật khắp nơi càng thêm rạng rỡ.

Tóm lại, mười lý huyền diệu này cộng với sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân giải thích vì sao “sự sự được vô ngại” trong pháp giới, và cắt nghĩa một cách đầy đủ giáo lý “trùng trùng duyên khởi” mà Hoa Nghiêm tôn chủ trương.