BẢN ĐỒ TU PHẬT _ TẬP III _ THIỀN TÔN _ P.05


NÓI RÕ VÀI PHÁP MÔN CỦA NHỊ THỪA THIỀN.
Như chúng ta đã thấy ở trên, pháp tu của Tiểu-thừa thiền rất nhiều, nếu nói cho rốt ráo, tỉ mỉ thì sẽ vượt ra ngoài hạn lượng của tập sách nhỏ nầy. Nhưng nếu nói một cách phớt qua, thì độc giả không biết y cứ vào đâu để hạ thủ công phu trong lúc sơ khởi. Vì thế, chúng tôi xin trích đăng lại đây vài phương pháp quán trong “Ngũ đình tâm quán” đã in ở tập phổ thông khóa IV, để hành giả được thuận tiện tu hành.
QUÁN SỔ TỨC
Bất luận trong công việc gì, sự định-tĩnh của tâm trí là một yếu tố chính yếu để thành công. Nhất là công việc tu hành, sự định tĩnh tâm thần lại càng quan trọng hơn nữa. Người tu hành mà tâm trí luôn luôn tán loạn, học trước quên sau, học sau quên trước, tư tưởng thiếu tập trung, thì dù có khổ công tu tập, cũng khó được kết quả khả quan.Vì thế phần nhiều trong các tôn giáo, người ta thường có phút “lắng lòng”, tập trung tư tưởng vào bên trong để khám phá nội tâm và soi sáng lẽ đạo. Riêng về đạo Phật thì có những pháp quán tưởng hay thiền định; chúng ta sẽ tìm hiểu trong các kinh sách nói về thiền định.
Hôm nay chúng tôi xin đề cử một vài phương pháp trong Ngũ đình tâm quán, mà pháp quán đầu tiên là Sổ-tức. Sở dĩ chúng tôi nói bài quán Sổ-tức trước là vì khi đi sâu vào các pháp quán, thiền giả trước tiên, phải biết quán là gì? quán như thế nào? và phải có một tâm trí định tĩnh không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên phải tập quán Sổ-tức. Khi quán Sổ-tức đã thuần thục rồi, thì các pháp quán sau mới để có kết quả, nghĩa là mới có thể trừ diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si, mạn, v.v…
Quán Sổ-tức là đếm hơi thở. Quán là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích hay suy nghiệm đến một vấn đề. Sổ-tức quán là tập trung tâm trí để đếm hơi thở ra vào của mình, mà mục đích là để đình chỉ tâm tán loạn.
Vì sao phải đình chỉ tâm tán loạn?.
Tâm trí chúng ta bị muôn việc ở đời chi phối, khi vui khi buồn, khi lo việc nầy khi suy nghĩ chuyện khác, khi mừng khi giận, khi thương khi ghét, không bao giờ được định tĩnh. Dù cho ta có ngồi yên một chỗ, khoanh tay lại, tâm trí chúng ta cũng không dừng nghỉ, mà vẫn sống với đời sống lăng xăng rộn ràng của nó. Bao nhiêu hình ảnh phức tạp, như một cuốn phim hiện lên trên màn ảnh của trí óc; và mỗi hình ảnh như thế lại mang theo nó một cảm tưởng vui buồn thương ghét, cho nên khi ta ngồi yên, chỉ là để cho thân xác được yên nghỉ, chứ còn tinh thần thì vẫn hoạt động, có nhiều khi lại hoạt động nhiều hơn cả lúc làm việc. Hầu hết chúng ta đều khổ tâm, bực tức về sự hoạt động lỗi thời ấy của tâm trí chúng ta: Không muốn nhớ nữa mà vẫn cứ nhớ, không muốn thương nữa mà vẫn cứ thương, không muốn giận nữa mà vẫn cứ giận. Làm chủ thể xác đã là khó, mà làm chủ tinh thần lại càng khó hơn. Nhất là trong thế giới máy móc, phức tạp ngày nay, một thế giới đầy màu sắc rộn ràng âm thanh chát chúa, hình ảnh kỳ dị, một thế giới cuồng loạn như thế, trí óc không mạnh mẽ vững vàng, thì rất dễ bị rối loạn. Vì thế, theo các bảng thống kê của các nhà bác học, số người mắc bệnh điên mỗi ngày mỗi nhiều trong thế giới ngày nay.
Riêng trong phạm vi nhỏ hẹp, chúng ta cũng nhận thấy có nhiều người học hành chẳng nhớ, gặp việc hay quên, niệm Phật không thành công, tham thiền quán tưởng chẳng kết quả, đều do sự tán loạn của tâm trí mà ra.
Vậy muốn học hành mau nhớ, gặp việc không quên, niệm Phật được nhất tâm bất loạn, tham thiền quán tưởng được thành tựu, đều cốt yếu là phải làm sao cho tâm trí được yên tĩnh.
Vì sao tâm trí được yên tĩnh, thì dễ đạt được những kết quả như trên?
– Ta hãy lấy một thí dụ thông thường mà nhiều người đã kinh nghiệm: Khi ta học một bài thuộc lòng hay làm một bài toán vào lúc hoàng hôn hay giữa cảnh náo nhiệt, thì ta thấy vất vả khó khăn vô cùng, vì suốt ngày tâm ta đã mệt mỏi tính toán lăng xăng, phân tán theo trần cảnh. Trái lại, cũng bài học đó, hay bài toán đó, mà trong buổi khuya thanh vắng, một mình một bóng với ngọn đèn, thì ta lại học bài rất mau thuộc, làm bài rất mau xong, tâm tánh ta hình như thông minh sáng suốt phi thường. Vì sao vậy? – Vì buổi khuya mới thức dậy, tâm trí ta yên định, chưa bị trần cảnh chi phối.
– Ta có thể đặt một thí dụ thứ hai nữa, để vấn đề càng thêm sáng tỏ: Một cây đèn dầu, mặc dù rất lớn ngọn, nhưng khi thắp lên, bị gió tứ phía đàn áp phải lung lay, leo lét khi mờ khi tỏ, có nhiều khi gần muốn tắt. Một ngọn đèn như thế chỉ làm hao dầu rất nhiều, chứ không thể soi sáng được gì hết. Nhưng khi chúng ta lấy ống khói chụp lại, gió không đánh bạt được nữa, ngọn đèn đứng thẳng và tỏa ánh sáng khắp gần xa, chiếu phá được một vùng bóng tối trong đêm trường.
Cũng như ngọn đèn bị gió bạt kia, tâm hành giả bị bát phong xuy động, thất tình lục dục chi phối, lục trần bủa vây, làm cho tán loạn, không soi sáng được gì cả. Vậy hành giả, muốn cho tâm được minh mẫn thì phải đừng cho nó tán loạn, nghĩa là phải định tâm, định càng thâm thì tâm càng tỏ, như ngọn đèn càng đứng lặng, thì ánh sáng càng tỏa. Phật dạy: “Tâm có định mới phát sinh trí huệ, có trí huệ mới phá trừ được vô minh để minh tâm kiến tánh”. Sở dĩ các vị Thánh hiền được biết việc quá-khứ vị-lai và có nhiều điều thần diệu, đều do tâm đã định mà phát sinh trí huệ sáng suốt, nên mới được như thế. Kinh chép: “Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện”, nghĩa là ngăn vọng tâm lại được một chỗ, thì không việc gì chẳng thành tựu. Hành giả muốn cho tâm mình hết tán loạn, được yên định, thì phải tu pháp quán Sổ-tức, một pháp quán rất dễ thật hành và rất kiến hiệu, ai cũng có thể làm được.
Những điều cần biết trước khi quán Sổ-tức.
Trước khi quán Sổ-tức cần phải theo đúng những điều sau đây:
1.- Thức ăn: Phải ăn những thức ăn hợp với cơ thể của mình. Nếu ăn đồ nóng nảy quá, thì thân thể sẽ bị bức rức, tâm sanh loạn động. Trái lại, nếu ăn những vật sanh lãnh, không tiêu hóa được, thì thân thể sẽ nặng nề, lừ đừ dễ sanh buồn ngủ.
2.- Đồ mặc: Phải mặc cho hợp thời tiết. khi trời nực mặc đồ mỏng, khi trời lạnh mặc đồ ấm. Nếu trái lại thân thể mất sự điều hòa, quán lâu có hiệu quả.
3.- Chỗ ở: Phải ở chỗ thanh vắng, thì sự tu quán mới mau được thành công. Nếu ở chỗ ồn ào, đối với người mới tu, không sao khỏi bị loạn động.
4.- Thời giờ tu: Nên lựa những giờ thanh vắng, như 10 giờ đêm, hay 04 giờ khuya. Nếu ở thành thị thì lựa giờ nào gia đình ngủ hết, chung quanh bớt tiếng động.
5.- Tắm rửa: Thân thể phải thường tắm rửa sạch sẽ, để khỏi ngứa ngáy bức rức trong người.
6.- Cách thức ngồi: Phải ngồi kiết già (hai chân tréo xấp lại gọn, thúc vào bắp vế cho sát), hoặc ngồi bán già (chân mặt tréo lên chân trái hay chân trái tréo lên chân mặt, thúc sát vào vế cho gọn gàng). Cách ngồi nầy đầu tiên chưa quen, không sao khỏi bị tê chân (chỉ tê chân khi đang ngồi thôi); qua thời gian hết tê thì đau mõi cả hai chân. Khi hết đau mõi, về sau ngồi bao lâu cũng được.
7.- Lưng: Lưng phải ngồi thẳng như vách tường, để cho các khớp xương sống ăn chịu vào đều nhau, như thế ngồi mới lâu được. Hành giả nên xem tấm vách tường kia, nhờ nó đứng thẳng, các viên gạch ăn chịu đồng đều, nên mới đứng lâu được, nếu hơi nghiêng, cố nhiên nó phải ngã.
8.- Hai tay: Hai cánh tay để vòng xuôi xuống, hai bàn tay để trên hai chân, tay mặt gát lên tay trái, cách thức như Phật ngồi (xem hình Đức Trung-Tôn ngồi trong mỗi chùa).
9.- Cổ và đầu: Cổ phải thẳng, đầu hơi ngã tới, hai mắt chỉ mở phần tư (nếu mở mắt lớn thì tâm bị loạn động, còn nhắm mắt lại thì sanh hôn trầm).
PHƯƠNG PHÁP SỔ TỨC
Khi đã ngồi yên ổn và đúng như cách thức đã nói trên, hành giả bắt đầu đếm hơi thở. Trước khi đếm, phải thở ra hít vào chín mười hơi thật dài để cho hơi thở điều hòa và những trược khí, uất kiết, nặng nề trong người đều tuông ra cả, và thay thế vào bằng những thanh khí mát mẻ, trong sạch của thiên nhiên.
Khi thở ra, hành giả phải tưởng: “Những điều phiền não, tham, sân, si, các chất bẩn trược trong người đều bị hơi thở tống ra sạch hết, không còn một mảy may nào”. Khi hít vào, hành giả nên tưởng: “Những chất nhẹ nhàng trong sạch sáng suốt của vũ trụ đều theo hơi thở thấm vào bủa khắp thân tâm”.
Khi đủ mười hơi rồi, hành giả bắt đầu thở đều đều, không dài không ngắn, không mau không chậm, phải thở nhẹ nhàng như hơi rùa thở. Nếu thở mau và dài thì tâm sanh loạn-động, còn thở chậm và ngắn thì tâm sanh hôn trầm, hoặc bị uất kiết, có khi lại sanh ra giải đãi, rồi tâm dong ruổi duyên theo ngoại cảnh. Nên phải thở cho nhẹ nhàng và đều đặn, không mau không chậm, thì trong người mới được thơ thới khỏe khoắn.
Từ đây mới bắt đầu đếm hơi thở. Phương pháp đếm hơi thở có bốn cách như sau:
1.-Đếm hơi thở: Nghĩa là thở hơi ra đếm một, thở hơi vô đếm hai, thở hơi ra đếm ba, thở hơi vô đếm bốn, đếm cho đến mười, không thêm, không bớt, rồi bắt đầu từ một cho đến mười lại. Cứ đếm đi đếm lại từ một đến mười, trong khoảng nữa giờ, một giờ hay hai giờ tùy ý.
2.-Đếm hơi chẵn: Nghĩa là thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi thở ra lần nữa đếm hai; cứ tuần tự như thế đếm cho đến mười. Khi đếm đến mười rồi, lại bắt đầu đếm một cho đến mười lại, mãi như thế cho đến nghỉ.
Phương pháp đếm hơi chẵn nầy rất thông dụng, xưa nay người ta thường dùng, và đếm hơi thở ra dễ hơn, khỏi bịnh tồn khí (chứa hơi lại trong phổi).
3.-Đếm thuận: Nghĩa là đếm theo hai cách trên, cách nào cũng được, nhưng tuần tự từ một đến mười.
4.-Đếm nghịch: Nghĩa là cũng dùng hai cách đếm trên, nhưng đếm ngược lại từ mười đến một.
Bốn phương pháp nầy, tùy ý hành giả muốn dùng một phương pháp hay cả bốn phương pháp thay đổi cho nhau cũng được. Miễn sao thuận tiện cho mình và khỏi lộn, là thành công; nghĩa là đối trị được tâm tán loạn.
NHỮNG ĐIỀU LẦM LỘN THƯỜNG XẢY RA TRONG KHI ĐẾM HƠI THỞ
Những điều lầm lộn mà hành giả thường mắc phải trong khi mới bắt đầu tu phép Sổ-tức là:
1.-Tăng: Nghĩa là thở ít mà đếm nhiều, đếm nhảy vọt, như mới ba liền đếm đến năm, hoặc mới năm liền nhảy đếm lên tám v.v…
2.-Giảm: Nghĩa là thở nhiều mà đếm ít, đếm thụt lùi, như đến bốn rồi lại đếm ba, hay bảy rồi lại đếm sáu v.v…
3.-Vô ký: Nghĩa là không nhớ rõ mình đã đếm đến số mấy rồi.
Mỗi khi lầm lộn như thế, phải bắt đầu đếm lại. Phải tập cho đến khi nào không còn mắc phải những lầm lộn nói trên, thì tâm trí mới được yên tịnh.
Tóm lại, quán Sổ-tức là một phương pháp đối trị tâm tán loạn rất hiệu nghiệm và rất thông dụng trong các môn phái của Phật giáo, từ Tiểu-thừa cho đến Đại-thừa, từ các nước Á-châu đến Tây-phương. Nhất là trong các giới Phật tử Nhật-bản và Âu-châu, pháp quán này rất được thịnh hành. Người tu hành áp dụng pháp quán này thì tâm hết tán loạn, niệm Phật mau được “nhất tâm bất loạn” tham-thiền quán-tưởng mau được thành công.
Không những kẻ tu hành, người thế gian cũng nên tu theo pháp quán này, thì thân thể sẽ được khỏe mạnh, tinh thần sẽ được yên tịnh thư thái, trí huệ lại sáng suốt, học hành mau nhớ, suy tính phán đoán công việc làm ăn được mau lẹ và phân minh.
Nhưng trong mọi công việc gì cũng vậy, muốn thành công, tất phải kiên nhẫn bền chí. Phương pháp dù hay đẹp bao nhiêu mà thiếu chuyên tâm trì chí, thì cũng không đưa đến kết quả khả quan nào cả. Chúng ta hãy xem người lái đò chèo ngược nước kia, nếu chèo được năm bảy mái chèo lại buông tay ngồi nghỉ, thì không những chẳng đi tới được bến bờ đã định, mà còn thụt lùi rất xa nữa. Cổ nhân cũng dạy “Giả sử có một thứ giống gì dễ trồng, mà một ngày nắng, mười ngày lạnh, thì giống đó cũng khó sinh”. Vậy hành giả đừng nên thấy pháp quán này dễ mà khinh lờn, giải đãi, tu một ngày nghỉ mười ngày, làm như thế tất nhiên không bao giờ được thành công.
Ngoài sự chuyên cần, hành giả còn phải theo đúng lời chỉ dẫn trên này, áp dụng đúng phương pháp thì mới được kết quả mỹ mãn.
Là Phật tử, phải thực hành pháp môn Sổ-tức này để cho tâm trí hết tán loạn, trí huệ dễ phát sinh, vô minh chấm dứt và trở lại với bản tâm thanh tịnh của mình.
Nói một cách thiết thực hơn nữa, nếu muốn tu các pháp quán trong “Ngũ đình tâm quán”, mà chúng tôi sẽ đề cập đến, trong những bài sau, trước tiên phải tập quán cho thuần thục pháp Sổ-tức này. Nếu pháp quán này chưa thành công, nghĩa là tâm đang còn tán loạn, mà vội quán những pháp quán khác, như “Bất tịnh quán, Từ bi quán, v.v…” thì chẳng khác chi xây lầu trên cát, thế nào cũng sẽ bị sụp đổ.

_HẾT TẬP III – PHẦN 05_