BẢN ĐỒ TU PHẬT _ TẬP 08 _ THÀNH THẬT TÔN


CON ĐƯỜNG TU THỨ MƯỜI TRONG MƯỜI TÔN
THÀNH THẬT TÔN
*****

I.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tôn này thuộc về Tiểu-thừa, y cứ vào lý nghĩa của bộ Thành-Thật-luận, do đó mà gọi là Thành-Thật tôn.
Bộ Thành-Thật luận do ngài Ma-Lê-Bạt-Ma (Harivarman, Tàu dịch là Sư-tử-khải) học trò thông thái nhất của ngài Cưu-Ma-La-Đà (Kumaraladha) thuộc phái Tiểu-thừa Tát-Bà-Đa làm ra, vào khoảng 900 năm sau khi Đức-Phật Thích-Ca thị hiện nhập Niết-bàn. Như chúng ta đã biết qua trong phần lịch sử truyền giáo ở Ấn-Độ, sau khi Đức Phật thị hiện nhập Niết-bàn, phái Tiểu-thừa chia ra thành nhiều nhóm, giải-thích kinh-điển của Phật không giống nhau. Nhận thấy nguy cơ có thể làm cho Phật-giáo suy đồi vì sự không đồng quan điểm về giáo-lý của các chi phái ấy, Ngài Ma-Lê-Bạt-Ma đã đem hết tâm lực và trí-huệ uyên-bác của mình, rút nghĩa lý tinh túy trong các bộ kinh luận của Tiểu-thừa, làm ra bộ Thành-Thật-luận. Sở dĩ ngài dùng hai chữ “Thành-Thật” để đặt tên cho bộ luận của mình là hàm ý muốn nói rằng những lý nghĩa trong bộ luận của mình là chân-thật, đúng-đắn hoàn toàn với giáo-lý căn bản trong 03 tạng kinh-điển của Phật. Mà thật như thế, bộ Thành-Thật-luận là bộ luận có thể tiêu-biểu một cách trung-trực giáo-lý của Tiểu-thừa.
Và cũng vì giá trị chân chính ấy mà bộ Thành-Thật-luận được truyền sang Trung-hoa và được ngài Cưu-Ma-La-Thập trong đời Giao-Tần dịch ra văn Tàu, gồm tất cả 16 cuốn, chia làm 202 phẩm. Nhưng mặc dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi đến đời Nam Bắc triều mới lập thành một tôn riêng tức là “Thành-Thật tôn”.

II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN
Tôn này chủ trương “Nhân không, Pháp không”.
Như chúng ta đã biết, theo Câu-Xá-tôn thì nhơn là không, nhưng pháp là có. Thành-Thật-tôn đi xa hơn, cho rằng nhơn là không thật, mà pháp cũng là không có thật.
Để giải thích chủ trương “hai không” này, Thành-Thật-tôn lập ra 02 môn là: Thế-giới-môn và Đệ-nhất-nghĩa-môn.
1.-Thế-giới-môn:
Môn nghĩa đen là cửa; Thế-giới môn tức là cửa đi vào thế-giới; nói một cách thông thường như ngày nay thường nói: “Thế-giới môn” tức là đứng về “phương diện thế-tục, phương diện tương-đối” mà quan-sát, suy-luận.
Xét về phương diện tương-đối, thì nhơn cũng có, mà pháp cũng có. Thật vậy, theo sự nhận xét thông thường, thì ta có một cái thân; ta đi, đứng, nằm, ngồi; ta có một cái tâm để suy-xét, phân-biệt, nhớ chuyện quá khứ, tính chuyện tương lai? Thế mà bảo là không có ngã thì thật là vô lý. Lại trong kinh cũng thường nói: ta thường tự ngăn-ngừa và gìn-giữ lấy ta, làm lành tự mình được hưởng điều lành; làm dữ tự mình chịu hưởng quả dữ. Vậy nếu bảo rằng không có người , không có ta, thì thật là trái với nhận-xét và lý-luận thông thường.
Xét về các pháp cũng vậy, bảo rằng không thì cũng là vô lý. Nếu không có sắc pháp thì làm sao có thân ta, có cảnh giới xung quanh ta? Ừ, thì thân ta do ngũ-uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giả hợp mà thành; Nhưng những thứ này cũng là pháp cả. Thí dụ, nếu ta chia chẻ các sắc-pháp ra thành nhỏ mãi, thì cuối cùng, dù nhỏ đến không thể chia chẻ được nữa, cũng vẫn còn là sắc, chứ sắc không thể chia ra mà thành “không” được. Ngược lại, nếu đã là không, thì không thể đem cái “không” ấy nhân lên mãi mà thành “có được”. Cũng như trong toán học, dù có nhân bao nhiêu lần với con số không (Zero), thì không cũng vẫn là không.
2.-Đệ-nhất-nghĩa-môn:
Đệ-nhất-nghĩa-môn hay chơn-đế, là nói về phương diện tuyệt-đối. Đứng về phương diện này mà xét, thì Ngã và Pháp đều là giả có, chứ không thật có. Khi năm-uẩn hòa-hợp thì tạm gọi là ta; khi năm-uẩn tan-rã thì cái ta ấy cũng không còn nữa. Vả lại cái ta ấy, trong lúc còn sanh tiền, thì mỗi phút, mỗi giây cũng đều có đổi thay, biến chuyển chứ không thuần nhất và bất biến.
Các pháp cũng vậy, tương-đối mà nói thì có, nhưng tuyệt-đối mà xét thì cũng không thật có. Các pháp cũng do nhân-duyên hòa-hiệp mà tạm gọi là có, chứ không thể có một cách tuyệt-đối, nghĩa là không thuần-nhất và bất-biến. Vì thế cho nên Phật dạy: “các pháp đều là như huyễn như hóa”. Kinh Bát-Nhã cũng nói: “Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc tức là không, không tức là sắc” … Tóm lại, đứng về Đệ-nhất-nghĩa-môn mà xét, các pháp rốt ráo là chơn-không. Chơn-Không là thế nào? Chơn-không có nghĩa là: chơn-lý của các pháp trong vũ trụ vốn là chơn thật, nhưng không phải là có hình tướng như các hình tướng giả dối mà người đời thường thấy ở chung quanh. Cái “có” và cái “không” trong đời, đối với chơn-đế hay Đệ-nhất-nghĩa-đế, đều là giả dối, không thật.
Nên biết thế “không” hiểu theo nghĩa Chơn-đế, khác với cái “không” hiểu theo nghĩa Tục-đế. Cái “không” của Chơn-đế thì gọi là chơn-không; còn cái “không” của Tục-đế là cái “không” đối lại với cái “có” mà thành, đó là Không-giới. Chơn-không thường vắng lặng tịch diệt ra ngoài cái đối đãi của “có” và “không” phàm tục. Còn Không-giới chẳng qua là cái sắc đối với nhãn-căn đó thôi. Chơn-không không phải là sắc, Không-giới mới là sắc. Chơn-không không thấy được, Không-giới có thấy được. Chơn-không không đối tượng, Không-giới thuộc về đói tượng. Chơn-không là vô-lậu, Không-giới là hữu-lậu. Chơn-không là vô-vi, Không-giới là hữu-vi.
3.-Tương-quan giữa Thế-giới môn (Tục-đế) và Đệ-nhất-nghĩa môn (Chơn-đế)
Theo Đệ-nhất-nghĩa môn thì chơn lý của vũ trụ vốn là chơn-không tịch-diệt, vắng-lặng; theo Thế-giới môn thì có ta và người, có sắc và không, nghĩa là có ngã và pháp. Vậy thì giữa Thế-giới môn và Đệ-nhất-nghĩa môn có tương-quan gì với nhau không? Làm sao từ Chơn-không, tịch-tịnh lại phát sanh ra ngã và pháp, nghĩa là từ chỗ Chơn-không lại phát sanh ra chúng-sanh và sơn hà đại địa?
Thành-Thật-tôn cắt nghĩa: đó là vì vô-minh. Các pháp trong vũ trụ, thể tánh vốn vắng-lặng, tịch-diệt, nhưng vì do tâm vọng-tưởng phân-biệt mà thấy có rối-loạn, lăng-xăng. Nói một cách rõ-ràng hơn, bản-tánh của vũ trụ vốn là không có ngã, không có pháp, nhưng vì “hai món chướng” mà thấy có ngã và pháp. Hai món chướng ấy là: Phiền-não-chướng và Sở-tri-chướng.
a/.Phiền-não-chướng, tức là các nghiệp-chướng về Kiến-hoặc và Tư-hoặc. Chướng này vì chấp cái ta là thiệt có, nên mới sanh các phiền-não, rối loạn thâm tâm, chướng-ngại đạo Niết-bàn tịch-tịnh. Chướng này, trong Câu-Xá-luận thì gọi là “tánh nhiễm-ô vô-tri”.
b/.Sở-tri-chướng, cũng gọi là trí-chướng. Căn bản của chướng này là chấp các pháp là thật có, làm che lấp cái tánh vô điên-đảo đối với các cảnh mình hay biết, làm chướng ngại đạo Bồ-đề. Chướng này, trong Câu-Xá-luận gọi là “bất nhiễm-ô vô-tri” (không nhiễm-ô nhưng vẫn thuộc về si mê không biết, vì làm cho mình không chứng rõ được chơn-lý).
4.-Tám-mươi-bốn pháp (84 pháp)
Như chúng ta đã thấy trong Câu-Xá-tôn, những hiện tượng của nhơn sanh và vũ trụ được phân loại thành 75 pháp. Theo Thành-Thật-tôn, thì nhơn sanh, vũ trụ lại được chia làm 84 pháp. Còn Pháp-Tướng-tôn lại chia thành 100 pháp. Như thế, chúng ta nên hiểu rằng sự phân chia ra ít hay nhiều pháp chỉ là một vấn đề tương-đối, chứ không có nghĩa nhất định. Sự phân loại các pháp này, chỉ có một mục đích là để nghiên cứu cho rõ ràng nhơn sanh, vũ trụ mà thôi. 84 pháp mà Thành-Thật-tôn đã phân loại là:
14 Sắc-pháp: 05 Căn, 05 Trần, 04 Đại.
50 Tâm-pháp: 01 Tâm-vương, 49 Tâm-sở (so với Câu-Xá-tôn thì có thêm 03 Tâm-sở là Hân [tánh hớn hở], Yểm [tánh nhàm chán] và Thùy-miên [mà Câu-Xá-tôn ghép thành 01 Tâm-sở, còn Thành-Thật-tôn thì chia làm 02 là: Thùy và Miên]).
17 Phi-sắc Phi-tâm pháp: (tức là Bất-tương-ưng hành pháp). Về loại này, Thành-Thật-tôn hơn bên Câu-Xá-tôn 03 pháp: Thành-Thật-tôn hợp “Mạng-căn” và “Đồng-phận” lại làm một, nhưng lại thêm Lão, Tử, Phàm-phu và Vô-tác (tức là Vô-biểu-sắc bên Câu-Xá-tôn).
03 Vô-vi pháp: (như bên Câu-Xá-tôn) Trạch diệt vô-vi, Phi-trạch-diệt vô-vi và Hư-không vô-vi.

III.-PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Phương pháp tu hành của Thành-Thật-tôn cũng gần giống như của Câu-Xá-tôn; nhưng vì Câu-Xá-tôn chủ trương “Nhơn không Pháp hữu”; còn Thành-Thật-tôn thì chủ trương “Nhân không Pháp không”, nên về phương pháp tu hành của Thành-Thật-tôn đặc biệt có hai phép quán là: Ngã-không quán và Pháp-không quán.
1.-Ngã-không quán và Pháp-không quán:
a/.Ngã-không quán: như quán trong cái bình không có nước, thì gọi là Không. Quán thân ta so 05 Uẩn hòa hợp giả tạm mà có, chứ không có một cái ta chơn-thật. Phép quán này mục-đích là để nhận rõ ý ngã (nhơn) không, nên gọi là “Ngã-không quán”.
b./Pháp-không quán: như sau khi quán cái bình không có nước, lại quán thêm một tầng nữa để thấy rằng, thể chất của cái bình cũng không chơn thật. Áp dụng phép quán này trong thân người, hành giả đi đến kết luận rằng: không những cái ta là không thật, do 05 Uẩn tạo thành; mà chính các pháp tạo ra 05 Uẩn cũng không chơn thật. Ấy là phép quán về Pháp-không.
2.-Tam Tâm và Diệt-đế:
Phương pháp này cũng gần giống như hai phép quán trên, nhưng đi xa hơn một tầng, nghĩa là không chấp có, nhưng cũng không chấp không. Tam tâm là:
a./Giả-danh tâm, tức là cái Tâm chấp những giả danh, như chấp người ta là có thật. Đối với sự chấp trước này hành giả dùng trí-huệ mà quán sát, biết nó đều là nhơn-duyên hòa hợp mà sanh, tức chứng được lý nhơn-không.
b./Pháp tâm, là cái Tâm chấp pháp-thể năm uẩn là thật có. Đối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí Chơn-không mà trừ bỏ, thấy được pháp-không.
c./Không tâm, là cái Tâm chấp cái “không” là thật có, nghĩa là đã quán biết được Nhơn-ngã, Pháp-ngã đều không, mà lại chấp cái “không” là thật. Như thế, chấp “có” đã là sai, mà chấp “không” lại càng sai hơn. Vậy phải quán Ngã, Pháp đều không, mà cái Không ấy cũng không có tướng nắm bắt, nhận thấy được như không-giới. Rốt lại, chỉ còn cái “Chơn-không” là chơn lý tuyệt đối, ra ngoài “có” và “không” của phàm tục. Đến đây tức là Diệt-đế.

IV.-QUẢ VỊ TU CHỨNG
Về quả vị tu chứng, tôn này cũng giống như Câu-Xá-tôn, có 27 tầng bậc, tức là 27 vị Hiền Thánh.
A/.Dự-lưu-hướng:
Dự-lưu-hướng nghĩa là hướng tới dòng thánh; nói một cách nôm na, hành giả đang đi dần đến để nhập vào dòng Thánh, như chiếc thuyền đang đi trên dòng sông con, để vào con sông cái. Dự-lưu-hướng gồm có 03 bực sau đây:
1.-Tùy tín hành: Tùy tín nghĩa là nghe theo lời dạy bảo của các bậc đã chứng quả, rồi tin và tu tập theo.
2.-Tùy pháp hành: Vị này không còn đợi có những lời dạy bảo của các bậc Thánh-hiền, nhưng chỉ thuận theo chánh pháp mà tự tu hành.
3.-Vô tướng hành: Là bậc kiến đạo, thấy được chơn lý của Tứ-Diệu-Đế, trí-vô-lậu đã phát sanh.
B/.Dự-lưu-quả:
Tức là quả Tu-đà-hoàn. Bậc này đã dứt hết những kiến-hoặc trong ba-cõi, dự vào dòng Thánh đạo.
C/.Nhứt-lai-hướng:
Bậc này đã dứt được năm phẩm tư-hoặc ở cõi Dục-giới, đang hướng đến quả Nhứt-lai.
D/.Nhứt-lai-quả:
Bậc này đã dứt được phẩm tu-hoặc thứ sáu ở cõi Dục-giới, nhưng còn phải trở lại một lần cuối cùng (nhứt lai) ở cõi Dục-giới.
Đ/.Bất-hoàn hướng:
Bậc này đã dứt được hai phẩm tư-hoặc thứ bảy và thứ tám ở cõi Dục-giới và đang tu hành để hướng đến quả Bất-hoàn, là quả đã thoát ra ngoài vòng Dục-giới và không còn trở về Dục-giới nữa.
E/.Bất-hoàn quả:
Bậc này đã hoàn toàn dứt được 09 phẩm tư-hoặc nơi cõi Dục-giới, cho nên không trở về cõi Dục-giới nữa. Quả này gồm có 11 bậc như sau:
1.-Trung ban: Bậc này, sau khi ở cõi Dục-giới vừa chết, sắp sanh lên cõi Sắc-giới, cái thân trung ấm tuy còn ở vào khoảng trung-gian mà đã dứt trừ các mê lầm phiền não của cõi Sắc-giới, nên vào ngay Niết-bàn.
2.-Sanh ban: Bậc này sau khi lên cõi Sắc-giới, chẳng bao lâu thì vào Niết-bàn; ấy là do sức siêng-năng về đường tu đạo mà mau tới vậy.
3.-Hữu-hành ban: Bậc này sau khi sanh về cõi Sắc-giới, tu hành tinh tấn mãi không nghỉ mà vào được Niết-bàn.
4.-Vô-hành ban: Bậc này trái lại, sau khi sanh vào cõi Sắc-giới, vì trễ nãi đường tu hành, nên thành quả dầu chậm đến, nhưng cuối cùng cũng vào Niết-bàn.
5.-Lạc-huệ ban: Bậc này sau khi sanh về cõi Sắc-giới, lại lần lượt sanh lên cõi Sắc-cứu-cánh là cõi cao nhất ở cõi Sắc-giới, mới vào Niết-bàn. Cõi trời Sắc-giới có định, có huệ, bậc này dùng huệ làm vui nên gọi là “Lạc-huệ”.
6.-Lạc-định ban: Bậc này không chịu vào Niết-bàn nơi cõi Sắc-giới, mà còn muốn chuyển sanh lên cõi Hữu-đỉnh là cõi cao của Vô-sắc-giới, mà vào Niết-bàn. Trong cõi Vô-sắc-giới này, chỉ có định mà không có huệ, hành giả lấy định làm vui, cho nên gọi là Lạc-định.
7.-Chuyển thệ: Bậc này sau khi ở cõi Dục-giới, chứng được quả Dự-lưu và Nhất-lai, đáng lẽ sanh về cõi Sắc-giới hay Vô-sắc-giới, nhưng lại chuyển sanh lại cõi  Dục-giới  mà tu hành, chứng được quả Bất-hoàn rồi vào thẳng ngay Niết-bàn.
8.-Hiện-ban: Bậc này không sanh vào cõi Sắc-giới, Vô-sắc-giới, cũng không cần chuyển sanh, chỉ tu tập trong một thời kỳ, chứng luôn ba quả, và đi thẳng từ cõi Dục-giới vào Niết-bàn.
9.-Tín-giới: Bậc này, vì căn cơ hơi chậm lụt, nên chỉ tin theo lời dạy bảo của kẻ khác mà tu hành, chứng được quả Bất-hoàn.
10.-Kiến-đắc: Bậc này trái lại với bậc Tín-giới nói ở trên, chứng được quả Bất-hoàn là nhờ có căn cơ lanh lợi, tự nương theo trí huệ của mình mà thôi.
11.-Thân-chứng: Bậc này là bậc lợi căn tột độ, chứng được Diệt-tận-định.
Mười một bậc Bất-hoàn quả kể trên này, không phải có thứ bậc tuần tự mà hành giả phải vượt qua. Đây chỉ là 11 trường hợp khác nhau trong quả Bất-hoàn, do căn cơ lanh lợi, hay chậm lụt, do sở nguyện hay hoàn cảnh, tâm-tính khác nhau mà ra. Nhưng dù sao, thì cũng là ở trong quả Bất-hoàn cả, không có cao và thấp, hơn và kém, và đều gọi là A-la-hán hướng, nghĩa là đang hướng đến quả A-la-hán.
Nếu kể từ bậc đầu tiên là Dự-lưu hướng cho đến bậc Bất-hoàn quả, gồm cả thảy 18 bậc, thì gọi là bậc Hữu-học.
Còn chín bậc cuối cùng sau đây là chín bậc A-la-hán quả, cũng gọi là bậc Vô-học.
F/.A-la-hán quả: Quả vị này gồm có 09 bậc, cũng gọi là bậc Vô-học, nghĩa là không cần phải học hỏi gì nữa.
1.-Thối-pháp tướng: Thối nghĩa là thối lui. Thối lui ở đây không có nghĩa là thối lui về sanh-tử làm chúng-sanh, mà chỉ thối lui về cảnh thiền-định đã đặng, như các bậc độn-căn La-hán.
2.-Thủ-hộ tướng: Thủ hộ là gìn giữ bảo hộ. Thủ hộ tướng tức là bậc La-hán giữ gìn bảo hộ cảnh thiền-định đã được, không mất.
3.-Tử-tướng: Là bậc La-hán rất nhàm chán thế gian, lại sợ thối nát  mất chỗ chứng ngộ của mình, nên muốn vào liền cõi Niết-bàn.
4.-Trú-tướng: Là các bậc La-hán, căn cơ không thể tu tới mà cũng không đến nỗi thối lui, chỉ giữ về bậc trung mà thôi.
5.-Khả-tấn tướng: Khả-tấn là có thể tiến thêm nữa. Đây là bậc La-hán đã chứng được bậc thiền-định, mà còn tu tới mãi.
6.-Hoại-tướng: Đây là bậc La-hán, căn cơ chậm lụt, nhưng vẫn giữ được không thối lui, mặc dù gặp phải nhơn duyên trở ngại.
7.-Huệ-giải-thoát: Bậc La-hán này đã chứng được diệt-tận-định, được chơn-trí vô-lậu, đã giải-thoát các phiền-não, nhưng chưa ly được sự chướng ngại về cảnh thiền-định.
8.-Cầu giải-thoát: Đây là bậc La-hán đã giải thoát được cả huệ chướng và định chướng; nghĩa là không còn bị trí-huệ hay thiền-định làm chướng ngại nữa.
9.-Bất-thối tướng: Đây là bậc La-hán có căn cơ lanh-lợi, bao nhiêu công đức trí-huệ đã tu tập đều không thối lui hay là tiêu mất được.
Tóm lại, mặc dù quả vị tu chứng của tôn này có chia ra đến 27 bậc, nhưng đó là muốn chia chẻ một cách rốt ráo của từng trường hợp, chứ đại khái cũng giống như quả vị tu chứng trong Câu-Xá-tôn. Thật vậy, nếu chúng ta đem so sánh quả vị của 02 tôn Câu-Xá và Thành-Thật, thì sẽ thấy như sau:

        CÂU-XÁ TÔN                                       THÀNH-THẬT TÔN
1.-Tu-đà-hoàn (hay Nhập-lưu).          1.-Dự-lưu hướng và Dự-lưu quả.
2.-Tư-đà-hàm (hay Nhứt-lai).            2.-Nhứt-lai hướng và Nhứt-lai quả.
3.-A-na-hàm (hay Bất-lai)                  3.-Bất-hoàn hướng và Bất-hoàn quả.
4.-A-la-hán (hay Vô-sanh, Vô-học).   4.-A-la-hán (Vô-sanh, Vô-học).

V.-KẾT LUẬN
Thành-Thật-tôn, cũng như Câu-Xá-tôn, đều thuộc các tôn phái của Tiểu-thừa Phật-giáo. Giáo lý căn bản của 02 tôn cũng gần giống nhau, chỉ có khác ở điểm: Câu-Xá-tôn thì chủ trương “nhơn không pháp hữu”, còn Thành-Thật-tôn thì chủ trương “nhơn không pháp không”. Như thế, Thành-Thật-tôn đã bước thêm một bước lại gần Đại-thừa Phật-giáo hơn. Đó là một điểm chứng minh rằng theo với thời gian, Tiểu-thừa và Đại-thừa càng xích lại gần nhau hơn. Với cái đà ấy, chúng ta hy vọng rồi đây, biên giới giữa hai phái lớn của Phật giáo sẽ được xóa hết, chỉ còn lại một danh từ, một cái đạo chung cho cả thế giới là Đạo Phật.